Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

Tội trốn thuế dưới góc độ hình sự - lý luận và thực tiễn


MỞ ĐẦU

1.Mục đích chọn đề tài.

Thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo pháp luật của mỗi người dân với đất nước, không hoàn trả trực tiếp ngang giá, nhưng được dùng để trang trải các chi phí vì lợi ích chung của toàn dân cư như đường xá, cầu cống, nhà thương, trường học…Bất kì một quốc gia nào tại bất kì thể chế chính trị nào cũng cần phải xây dựng một hệ thống thuế khoán hoàn chỉnh và hợp lý bởi vai trò đặc biệt quan trọng của thuế : là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung một phần của cải vật chất xã hội vào ngân sách Nhà nước; công cụ điều tiết vĩ mô Nhà nước đối với nên kinh tế  và đời sống xã hội; góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
Với vai trò quan trọng như vậy, các quy định liên quan đến thuế, nghĩa vụ đóng thuế được quy định chặt chẽ trong các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành;  như: Luật quản lý thuế 2006(đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012); Nghị định 85/2007/NĐ-CP về hướng dẫn Luật quản lý thuế; Nghị định 98/2007/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Thông tư 61/2007/TT-BTC hướng dẫn xử lý vi phạm pháp luật về thuế;…. Điều 80, Hiến pháp năm 1992 có quy định “Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật”. Thưc hiện nghĩa vụ đóng thuế chính là việc mỗi công dân, tổ chức thể hiện ý thức chấp hành pháp luật và góp phần xây dựng đất nước.
Trong xu thế đất nước ngày càng phát triến, thuế lại càng đóng một vai trò quan trọng hơn nữa. Tuy nhiên, nhiều người không nhận thức được tầm quan trọng cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của mình tìm đủ mọi cách để trốn thuế. Điều này sẽ gây ra một thiệt hại lớn cho nguồn ngân sách nhà nước và làm mất đi sự công bằng của xã hội, nếu sai phạm này trở nên nghiêm trọng sẽ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 161 Bộ Luật Hình sự 1999(đã sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Trên cơ sở những kiến thức đã được học và những hiểu biết thực tế cũng như các tài liệu thu thập được, em đã chọn đề tài “Tội trốn thuế dưới góc độ hình sự - lý luận và thực tiễn ” để làm đề báo cáo chuyên đề thực tập của mình.     

2.Mục đích thực hiện đề tài.

Mục đích chọn đề tài trên của em là nhằm phân tích cụ thể và đánh giá những quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng của tội trốn thuế đươi góc nhìn của pháp luật Hình sự. Từ đó tìm ra được những vướng mắc, bất cập còn tồn tại và đưa ra những kiến nghị, sửa đổi để hoàn chỉnh hơn các quy định pháp luật về thuế; đảm bảo xử lý có  hiệu quả nhất các sai phạm, duy trì cân bằng cho xã hội.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật hình sự về tội trốn thuế hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu là những văn bản pháp luật hình sự hiện hành quy định về tội trốn thuế, cùng các sách, báo, nghiên cứu, bình luận của những nhà nghiên cứu…

4.Phương pháp nghiên cứu.

Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã sử dụng các phương pháp khác nhau để nghiên cứu: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích – tổng hợp – đánh giá; phương pháp liệt kê – trích dẫn; phương pháp so sánh. Bên cạnh đó là sự kết hợp đồng thời cả lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ nội dung của đề tài.

5.Bố cục của đề tài.

Bố cục của bài sẽ được chia làm ba phần là : mở đầu, phần nội dung và kết luận. Nội dung của bài được trình bày thành 3 chương, bao gồm :
Chương I: Lý luận thuế và tội trốn thuế dưới góc độ pháp luật hình sự
Chương II: Thực tiễn tình hình  tội phạm trốn thuế hiện nay.
Chương III: Những bất cập còn tồn tại và một số kiến nghị hoàn thiện hơn quy định về tội trốn thuế hiện nay.

1.     Thuế và nghĩa đóng thuế theo quy định của pháp luật hiện nay.

1.1.         Thuế và đặc điểm của thuế.

Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có các điều kiện nhất định. Thuế ra đời một cách tất yếu và khách quan, gắn liền với sự ra đời  và phát triển của Nhà nước. Các đặc trưng của thuế là:
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc nộp vào ngân sách Nhà nước. Tính bắt buộc thể hiện ở hai phương diện: Với cơ quan thuế và với người nộp thuế. Đối với cơ quan thu thế: thu thuế là nghĩa vụ bắt buộc đối với cán bộ cơ quan thu thuế; không ai được quyền chọn đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tình thuế.... Đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho Nhà nước khi có đủ điều kiện do pháp luật thuế quy định mà không phải quan hệ thanh toán trong hay ngoài hợp đồng. Dù được thực hiện dưới hình thức nào thuế vẫn mang tính chất bắt buộc.
Thứ hai, thuế gắn liền với yếu tố quyền lực. Thuế ra đời gắn liền với sự ra đời của Nhà nước, và do Quốc hội lập ra dưới hình thức là một đạo luật- là hình thức văn bản có tính pháp lý cao nhất do cơ quan quyền lực cao nhất, cơ quan lập pháp đặt ra. Thuế và quyền lực Nhà nước là hai phạm trù không thể tách rời: Nhà nước là chủ thể duy nhất đặt ra các khoản thuế và ngược lại thuế là phương tiện vật chất chủ yếu để duy trì quyền lực Nhà nước. Bằng quyền lực chính trị, Nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế.
Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. Trước khi thu thuế Nhà nước không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế. Sau khi thu thuế, Nhà nước cũng không có sự hoàn trả trực tiếp nào cho người nộp thuế. Bởi lẽ, thuế được thu nhằm đáp ứng mọi chi tiêu của Nhà nước, nên thuế không có đối khoản cụ thể. Điều này thể hiện rõ ở chỗ nguồn thu tờ mỗi loại thuế không được gắn với một mục đích chi tiêu cụ thể nào.
Thứ tư, thuê có phạm vi áp dụng rộng. Phạm vi áp dụng của thuế không có giới hạn, khác biệt giữa các địa phương, vùng lãnh thổ. Hầu như mọi đối tượng hàng hóa, dịch vụ, mọi tổ chức. cá nhân đều là đối tượng điều chỉnh của thuế. Bởi vì thuế là khoản thu có tính bắt buộc đối với các tổ chức, cá nhân khi có đủ những điều kiện nhất định.
Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống pháp luật thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng và quản lý hệ thống thuế, chúng ta tiến hành sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế trong hệ thống pháp luật thuế thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Căn cứ để phân loại thuế, tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà cơ cấu và nội dung các Luật thuế có khác nhau. Cũng tùy thuộc vào cơ sở, mục đích phân định, thông thường thuế được phân loại theo các tiêu thức sau:
Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân sách Nhà nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối với người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chổ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu thuế.
Ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chổ người nộp thuế theo quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế.
Ở  nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp…. Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
Căn cứ vào đối tượng đánh thuế. Theo cách phân loại này thuế được chia thành:
-         Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng.
-         Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
-         Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
-         Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất.
-         Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước.
-         Thuế khác và lệ phí, phí.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế.
Các loại thuế cơ bản áp dụng ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam.
Do thể chế chính trị, kinh tế của các nước không giống nhau nên hệ thống pháp luật thuế của mỗi quốc gia đều có tính chất đặc thù riêng. Chúng ta nghiên cứu sơ lược về hệ thống chính sách pháp luật thuế ở một số nước xã hội chủ nghĩa và các nước có nền kinh tế thị trường.
Hệ thống pháp luật thuế của một số nước xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, một số nước xã hội chủ nghĩa đã có những thay đổi về chính sách kinh tế và tài chính, áp dụng cơ chế kinh tế thị trường, tăng cường giao lưu thương mại với nhiều nước trên thế giới, trong khu vực cũng như ngoài khu vực, không phân biệt thể chế chính trị. Một số nước đã áp dụng chính sách pháp luật thuế với nhiều ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài để thu hút vốn đầu tư. Do đó các Luật thuế về cơ bản cũng có nhiều thay đổi. Tuy nhiên mục đích của Luật thuế vẫn là điều tiết thu nhập nhằm đảm bảo công bằng và chính sách thuế vẫn có xu hướng thiên về loại gián thu.
Nói chung, hiện nay tại một số nước xã hội chủ nghĩa, các Luật thuế với thuế suất cũng như cách tính thuế đang được áp dụng có nhiều điểm tương đồng, phù hợp với chuẩn mực chung với Luật thuế của các nước tiên tiến trên thế giới.
Hệ thống pháp luật thuế của một số nước áp dụng cơ chế kinh tế thị trường.
Pháp luật thuế của các nước tư bản đã có từ rất lâu đời và luôn được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ngày một phát triển. Hệ thống pháp luật thuế của các nước tư bản áp dụng nhiều Luật thuế khác nhau, được phân loại và xếp thành hệ thống như sau:
Thuế trực thu: gồm có: Thu nhập công ty; Thuế thu nhập cá nhân; Thuế môn bài hay thuế nghề nghiệp; Thuế tài sản; Thuế gián thu: gồm có; Thuế tiêu thụ đặc biệt (thuế tiêu dùng); Thuế giá trị gia tăng; Thuế hí cuộc; Thuế quan; Thuế trước bạ và con niêm.
Về cơ bản các nước có nền kinh tế thị trường đều áp dụng các Luật thuế trên đây và coi đây là nguồn thu cơ bản cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên cũng tùy theo cơ chế kinh tế và tổ chức xã hội của mỗi nước mà có sự thay đổi trong cách tính thuế và thuế suất.

1.2.         Vai trò của thuế.

Để quản lý, điều hành vĩ mô nền kinh tế xã hội, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ như: Kế hoạch hoá, pháp luật, các chính sách tài chính tiền tệ.... Trong các công cụ trên thì chính sách tài chính tiền tệ đóng vai trò quan trọng nhất và thuế là một công cụ quan trọng trong chính sách tài chính tiền tệ, thuế được nhà nước sử dụng để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô kinh tế xã hội.
* Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.Tất cả các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đều được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các hình thức thu khác như: vay mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu khác.... Trong  thuế được coi là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng. Ở nước ta, Thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước từ năm 1990.
* Thuế, một công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân.
        *. Thuế kích thích sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm.
Nội dung điều tiết của thuế gồn hai mặt: Kích thích và hạn chế. Nhà nước đã sử dụng chính sách thuế một cách linh hoạt trong từng thời kỳ nhất định, bằng việc tác động vào cung-cầu nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh doanh- một đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường. Chính sách thuế có định hướng phân biệt, có thể góp phần tạo ra sự phát triển cân đối hài hoà giữa các ngành, các khu vực, các thành phần kinh tế, làm giảm bớt chi phí xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
*. Thuế thực hiện vai trò tái phân phối các nguồn tài chính, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Kinh tế thị trường làm ra tăng sự phân hoá giàu nghèo, sự phân hoá này có những khi bất hợp lý và làm giảm tính hiệu quả kinh tế-xã hội. Do vậy, cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm hạn chế sự phân hoá này, làm lành mạnh xã hội. Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, thông qua việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng. Thông qua thuế thu nhập, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới công bằng xã hội. Một khía cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu dùng: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng.
         *. Thuế là công cụ kiềm chế lạm phát.
Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả hàng hoá tăng lên hoặc do chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để điều chỉnh lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì nhà nước dùng thuế để điều chỉnh bằng cách giảm thuế đối với các yếu tố sản xuất, giảm thuế thu nhập để kích thích đầu tư sản xuất ra nhiều khối lượng sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời tăng thuế đối với hàng hoá tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí tăng, gia tăng thất nghiệp, sự trì trệ của tốc độ phát triển kinh tế, giá cả đầu vào tăng, nhà nước dùng thuế hạn chế tăng chi phí bằng cách cắt giảm thuế đánh vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao động.
*. Thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều kiện hoà nhập nền kinh tế thế giới.
Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh khốc kiệt từ bên ngoài được coi là hết sức cần thiết đối với các nước. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để kích thích sản xuất trong nước phát triển, kích thích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nhà nước đánh thuế rất thấp hoặc không đánh thuế vào hàng xuất khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Đánh thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được và đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước đã sản xuất được hoặc hàng hoá tiêu dùng xa xỉ.
Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế đang phát triển mạnh mẽ ở trong khu vực và trên thế giới. Sự ưu đãi, các hiệp định về thuế, tính thông lệ quốc tế của chính sách thuế có thể làm gia tăng sự hoà nhập kinh tế giữa một số quốc gia với khu vực và cộng đồng quốc tế.

1.3.         Nghĩa vụ đóng thuế của công dân theo pháp luật hiện nay.

Hiến pháp – đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất; Luật quản lý thuế 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)- văn bản pháp luật chuyên ngành  đã quy định cụ thể nghĩa vụ, trình tự, thủ tục để hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế. Theo đó các chủ thể có nghĩa vụ phải đi đăng ký thuế đầy đủ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nộp thuế đầy đủ, đúng thời hạn theo quy định. Cụ thể nghĩa vụ được quy định trong Luật quản lý thuế như sau:
“ Điều 7: Nghĩa vụ của người nộp thuế:
1. Đăng ký thuế, sử dụng mã số thuế theo quy định của pháp luật.
2. Khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế.
3. Nộp tiền thuế đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm.
4. Chấp hành chế độ kế toán, thống kê và quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.
5. Ghi chép chính xác, trung thực, đầy đủ những hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế, khấu trừ thuế và giao dịch phải kê khai thông tin về thuế.
6. Lập và giao hoá đơn, chứng từ cho người mua theo đúng số lượng, chủng loại, giá trị thực thanh toán khi bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ theo quy định của pháp luật.
7. Cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế, số hiệu và nội dung giao dịch của tài khoản mở tại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; giải thích việc tính thuế, khai thuế, nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế.
8. Chấp hành quyết định, thông báo, yêu cầu của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật.
9. Chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật trong trường hợp người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền thay mặt người nộp thuế thực hiện thủ tục về thuế sai quy định.”
Nói như vậy không có nghĩa mọi công dân, tổ chức đều có nghĩa vụ nộp thuế mà với từng loại thuế, khi có các điều kiện cần thiết mới phải nạp hoặc có những điều kiện khó khăn có  thể được miễn giảm hoặc miễn nộp thuế. Đối với những trường hơp đặc biệt như xuất cảnh, khi doanh nghiệp phá sản, chấm dứt hoạt động; tổ chức lại doanh nghiệp, khi cá nhân mất năng lực hành vi dấn sự… cũng được quy định chi tiết tại chương VI – trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của Luật quản lý Thuế và các văn bản pháp luật hướng dẫn có liên quan.
Những cá nhân gian lận, cố tình khai gian, tạo hoàn cảnh giả, trốn nộp thuế...,Nhà nước sẽ có những biện pháp để truy cứu, có thể là trách nhiệm dân sự, phạt hành chính thậm chí truy cứu trách nhiệm Hình sự theo Điều 161 Bộ Luật Hình sự.

2. Tội trốn thuế theo pháp luật Hình sự hiện nay.

2.1 Tội trốn thuế.

Tội trốn thuế được quy định tại Điều 161 Bộ luật Hình sự 1999 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2009) như sau: 
1. Người nào trốn thuế với số tiền từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm.
2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ ba trăm triệu đồng đến dưới sáu trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm
3. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ sáu trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền trốn thuế.” 
Cũng như các tội phạm kinh tế khác, tội trốn thuế là hành vi nguy hiểm 
cho xã hội, xâm phạm đến nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của 
Nhà nước và xã hội thông qua việc vi phạm các quy định, các chính sách về 
thu, nộp thuế                                                  .           
           Từ Bộ luật Hình sự năm 1985 tới Bộ luật Hình sự năm 1999, tội trốn 
thuế đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần: 3 lần vào các năm 1991, năm 1992, năm 
1997 và được quy định mới lại tại Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo Bộ luật 
Hình sự năm 1985, mức hình phạt được quy định trong tội danh này là cải tạo 
không giam giữ đến 01 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm. Sau khi 
được sửa đổi, bổ sung vào ngày 12 tháng 08 năm 1991, tội trốn thuế đã được 
quy định bổ sung thêm về hành vi và hình phạt, đó là: “… Trốn thuế với số 
lượng rất lớn hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xoá án về tội trốn thuế hoặc 
về một trong các tội quy định tại các Điều 96a, 97, 165, 166, 167, 168, 173 và 
183, hoặc trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ 
hai năm đến bảy năm”. Việc tăng mức hình phạt này hoàn toàn phù hợp với 
nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, để sát hợp với đời sống kinh tế - xã 
hội, phát huy tác dụng đấu tranh và phòng ngừa tội phạm trốn thuế, ngày 22 
tháng 12 năm 1992, tội danh trốn thuế được sửa đổi, bổ sung lần thứ hai. ý 
nghĩa của lần sửa đổi này là mức phạt tù tăng lên đáng kể. Theo khoản 1 Điều 
169 thì mức phạt tù được nâng lên từ 06 tháng đến 03 năm (trước đây là từ 03 
tháng đến 03 năm); khoản 2 từ 03 năm đến 12 năm (trước đây là từ 02 năm 
đến 07 năm). Ngày 10 tháng 05 năm 1997, tội trốn thuế được sửa đổi, bổ sung 
lần thứ ba, bổ sung thêm vào khoản 2, các tội liên quan đến tình tiết tăng nặng 
của hình phạt, đó là các Điều 185b, 185c, 185d, 185đ. Tại Bộ luật Hình sự 
năm 1999, tội trốn thuế được quy định tại Điều 161 có nhiều nội dung mới 
hơn, phù hợp hơn so với ba lần bổ sung trước đây
Tội trốn thuế được hiểu là hành vi khai báo gian dối trong sản xuất, kinh doanh để không phải đóng thuế hoặc đóng mức thuế thấp hơn nhiều so với mức phải đóng, tội trốn thuế đã được sửa đổi về số tiền trốn thuế trong Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung, với hình phạt nghiêm khắc nhất là bảy năm tù và phạt tiền gấp ba lần số tiền trốn thuế.
Để hiểu cụ thê cần phân tích cấu thành tội phạm của tội phạm này:
-         Về khách thể của tội phạm:
Tội trốn thuế xâm phạm quy định của Nhà nước về thuế làm suy giảm đến ngân sách Nhà nước
-         Về mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi khách quan là hành vi khai báo gian dối, tạo hoàn cảnh, điều kiện giả nhằm trốn tránh việc nộp thuế.  Cần chú ý thuế được hiểu là mọi loại thuế phải đóng bằng tiền với tính chất là nghĩa vụ bắt buộc. Một số thủ đoạn được sử dụng hiện nay như:
-         Kê khai không đúng căn cứ tính thuế theo quy định của pháp luật về
thuế xuất khẩu, thuế NK;
-         Lập sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ, hợp đồng sai với thực tế sản
xuất, kinh doanh;
-         Lợi dụng các kẽ hở trong các chính sách, pháp luật về quản lí hoạt
động NK để gian lận, trốn thuế NK;
-         Làm giả chứng nhận xuất xứ hàng hóa, hợp đồng ngoại thương, chứng
từ thanh toán và các chứng từ khác có liên quan để trốn thuế;
-         Lợi dụng Luật Hải quan, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho ân
hạn nộp thuế để xin nhập nhiều hàng hóa, nợ thuế NK với số tiền lớn sau đó tẩu
tán hàng và chây ỳ không nộp thuế, tiến hành giải thể doanh nghiệp hoặc bỏ
trốn.
Tội phạm chỉ cấu thành nếu số tiền trốn thuế từ năm mươi triệu đồng trở lên; hoặc dưới năm mươi triệu đồng thì đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về các tôi quy định tại các Điều 153, 154, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật Hình sự, chưa được xoá án tích.
-         Về mặt chủ quan của tội phạm.
Dấu hiệu về lỗi, lỗi của chủ thể là lỗi cố ý . Người phạm tội biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhận thức và điều chỉnh được hành vi của mình; biết trước hậu quả và mong muốn hoặc để mặc cho hậy quả đó xảy ra.
Mục đích của người phạm tội là để không phải nộp thuế hoặc giảm số tiền thuế phải nộp xuống thấp hơn.
-         Về chủ thể của tội phạm:
Người phạm tội là người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Những đối tượng phải đóng thuế đều là có thể là chủ thể của tội trốn thuế, các chủ thể này được quy định tại khoản 1, Điều 2 Luật quản lý thuế 2006( sửa đổi, bổ sung năm 2012)
a) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế;
b) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước (sau đây gọi chung là thuế) do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật;
c) Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay người nộp thuế.”
Thông thường, hành vi phạm tội  trốn thuế nhập khẩu trong các doanh nhiệp ngoài quốc doanh là do những người có trách nhiệm, quyền hạn trong doanh nghiệp và những người ở các cơ quan liên quan như cơ quan hải quan, cơ quan giám định đã tiếp tay cho doanh nghiệp trốn thuế.Những người trên đã có chủ trương, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia thực hiện hành vi phạm tội trốn thuế NK ở các DN NQD.
Tội trốn thuế có 3 khung hình phạt: phạt tiền từ một đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm; phạt tiền từ một đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm; phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Ba khung hình phạt này tương ứng với mức độ phạm tội được quy định tại khoản 1,2,3 Điều 161 Bộ Luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Hình phạt bổ sung của tội này là phạt tiền từ một đến 3 lần số tiền trốn thuế.
Tội trốn thuê là nột trong những tội xâm phạm trật tự an nih quản lý kinh tế, điều này xuất phát từ vai trò quan trọng của thuế. Nếu hành vi VPPL thuế của tổ chức, cá nhân cấu thành một hoặc nhiều tội phạm được quy định trong BLHS thì người vi phạm sẽ phải chịu các chế tài hình sự. Thực tiễn cho thấy các vi phạm hình sự chủ yếu trong lĩnh vực thuế là hành vi trốn thuế, hành vi tham ô tiền thuế, hành vi nhận hối lộ, hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ, hành vi cố ý làm trái các nguyên tắc quản lí tài chính trong lĩnh vự thuế. Trên thực tế các hành vi này đều được quy định là tội phạm trong BLHS năm 1999 và đều có thể bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật này, tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của mỗi hành vi.
Trốn thuế  sẽ gây nên tình trạng thất thu thuế, gây tổn hại lớn cho thu ngân sách nhà nước. Thất thu thuế là một hiện tượng thực tế khách quan vốn có của bất kỳ hệ thống thuế khoá nào. Nó phản ánh hai mặt của một vấn đề: lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người nộp thuế. Trên thực tế thì hai lợi ích này thường mâu thuẫn với nhau. Nhà nước luôn có khuynh hướng tăng nguồn thu từ thuế, trong khi đó người nộp thuế luôn mong muốn càng giảm số thuế phải nộp càng nhiều càng tốt. Hay nói cách khác, ở đâu có thuế khoá thì ở đó có thất thu. Thất thu thuế biểu hiện, diễn biến rất đa dạng và phức tạp tuỳ theo điều kiện của nền kinh tế - xã hội của một Quốc gia, song có thể khái quát hoá thành 2 dạng: thất thu thực tế và thất thu tiềm năng.
            -  Thất thu thực tế là có nhiều khoản thu được quy định rõ ràng trong các luật thuế, song do nhiều nguyên nhân số tiền đó không được tập trung vào ngân sách đúng quy định.
            - Thất thu tiềm năng là thực tế có nhiều nguồn thu cần thiết phải động viên vào ngân sách nhưng lại không thu được vì chưa có quy định của luật pháp.

2.2. Phân biệt tội trốn thuế và các vi phạm về thuê khác.

Để áp dụng pháp luật chính xác, đòi hỏi phải phân biệt được hành vi vi phạm hành chính về thuế với tội phạm trốn thuế
Giữa vi phạm hành chính về thuế và tội phạm trốn thuế có những đặc điểm giống nhau và khác nhau nhất định
- Giống nhau:
     + Đều xâm phạm đến chính sách thuế của Nhà nước trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm giảm nguồn thu của ngân sách nhà nước;
     + Hành vi đó đều được thực hiện bằng các thủ đoạn: không kê khai hoặc kê khai sai căn cứ tính thuế theo quy định của pháp luật về thuế, lập sổ sách  kế toán, hoá đơn chứng từ…sai so với thực tế phát sinh để trốn thuế.
- Khác nhau:
       +Vi phạm hành chính về thuế thì mức độ nguy hiểm, hậu quả tác hại gây ra thấp hơn so với tội phạm trốn thuế (tức là, nếu trốn thuế lần đầu với số tiền trốn thuế dưới năm mươi triệu đồng thì chỉ bị xử lý hành chính);
       +Vi phạm hành chính về thuế được thực hiện bằng cả hai hình thức lỗi (cố ý và vô ý) và bị xử phạt theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính còn tội phạm trốn thuế chỉ được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý;
       + Chủ thể của vi phạm hành chính về thuế bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Trong khi đó, chủ thể của tội phạm trốn thuế chỉ là con người cụ thể có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định, có chủ trương hoặc trực tiếp thực hiện hành vi trốn thuế;
        + Việc xử lý vi phạm hành chính về thuế là do các cơ quan quản lí nhà nước thực hiện như ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan thuế, cơ quan hải quan..., trong khi đó việc áp dụng chế tài để xử lý tội phạm trốn thuế chỉ do Toà án mới có quyền áp dụng và phải theo trình tự mà Bộ luật TTHS quy định;
       + Vi phạm hành chính về thuế do các luật thuế và các văn bản dưới luật về thuế quy định; trong khi đó, tội phạm trốn thuế chỉ được quy định trong Bộuật Hình sự...
Việc phân biệt giữa hành vi vi phạm hành chính trốn thuế với hành vi là tội phạm trốn thuế có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn. Nhận thức đúng điều đó là cơ sở để lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV tập trung đấu tranh có trọng tâm, trọng điểm và có hiệu quả với tội phạm trốn thuế, làm sáng tỏ các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm để xử lý theo quy định của pháp luật hình sự.



CHƯƠNG II. THỰC TIỄN VỀ TÌNH HÌNH TRỐN THUẾ HIỆN NAY

1.Tội phạm về thuế đang diến biến rất phức tạp.

Số liệu mới nhất vào đầu tháng 8/2013 của Công An TP Hà Nội tại tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện quy chế phối hợp phòng chống các hành vi tội phạm trong lĩnh vực thuế cho thấy tình hình tội phạm về thuế đã diễn biến rất phức tạp; các vụ vi phạm có xu hướng ngày càng gia tăng và nghiêm trọng ở hầu hết các loại hình doanh nghiệp gây thất thu không nhỏ cho ngân sách Nhà nước.
Hiện nay Nhà nước đã ban hành 10 sắc thuế nhưng trong đó, 5 loại sắc thuế bị tội phạm lợi dụng nhiều nhất là : thuế giá trị gia tăng; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập cá nhân; thuế xuất nhập khẩu và thuế nhà đất. Một vài con số nói lên thực trạng tối trốn thuế trong một vài năm trở lại đây như sau:
Năm 2011, cơ quan công an đã điều tra, xử lý 204 vụ vi phạm pháp luật về thuế, với 215 đối tượng tham gia, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2010, trong đó các thủ đoạn thường được sử dụng là: DN ngoài quốc doanh và DN FDI tìm mọi cách khai khống chi phí đầu vào để tiết giảm lợi nhuận từ đó giảm thu nhập để trốn thuế. Tình trạng bán hàng không xuất hóa đơn cũng diễn ra phổ biến. Nhiều đối tượng không tuân thủ các quy định về kế toán, mua bán hàng hóa qua nhiều khâu trung gian, sử dụng hóa đơn của DN bỏ trốn để trốn thuế. Điển hình như Công ty Viễn thông điện lực bán hàng không xuất hóa đơn GTGT, không nộp ngân sách 37 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các đối tượng thường dùng thủ đoạn kê khai giảm giá hàng hóa nhập khẩu, ghi giá trong hợp đồng thấp hơn so với giá trị thực tế, đặc biệt là khai sai chủng loại hàng hóa, từ hàng có giá trị cao, đời mới thành hàng hóa có giá trị thấp, đời cũ, hàng mới 100% thành hàng đã qua sử dụng… để trốn thuế GTGT và thuế nhập khẩu. Một số trường hợp còn lợi dụng các chế độ ưu đãi để nhập khẩu thêm nhiều hàng hóa khác để trốn thuế, ví dụ như Công ty liên doanh sân golf Tam Đảo lợi dụng việc nhập khẩu thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh sân golf đã nhập khẩu 34 ôtô 49 chỗ ngồi, trốn thuế trên 70 tỷ đồng...
Ở nước ta, hiện tượng trốn lậu thuế hay cụ thể là gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng đang là hiện tượng rất phổ biến, thủ đoạn ngày càng tinh vi và xảo quyệt. Theo kết quả kiểm toán hàng năm, KTNN đã phát hiện một số sai phạm phổ biến như: hạch toán doanh thu không đúng niên độ kế toán, doanh thu ghi trên hoá đơn thấp hơn giá thực tế thanh toán để giảm thuế GTGT đầu ra và giảm thu nhập chịu thuế, áp dụng sai thuế suất thuế GTGT, không phân bổ thuế GTGT đối với hàng không chịu thuế... Đối với thuế TNDN chủ yếu vi phạm ở những khoản chi không được phép hạch toán như quà biếu, tham quan, chi khuyến mãi... hoặc các hành vi gian lận trong hoàn thuế GTGT như thành lập nhiều DN trung gian ở nhiều nơi khác nhau, tổ chức mua bán lòng vòng hàng hoá, dịch vụ lập hồ sơ khống nhằm hạn chế sự kiểm soát của cơ quan thuế; lập hồ sơ khống xuất khẩu hàng hoá nhất là hàng nông, lâm, hải sản chưa chế biến qua đường biên giới đất liền để được hoàn thuế...; từ khi thực hiện việc điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu ưu đãi đối với một số nhóm mặt hàng, lập tức xuất hiện hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu hạ giá khai báo tính thuế để gian lận thuế. Nếu như trước kia, hành vi gian lận về thuế qua giá chỉ xuất hiện ở hàng nhập khẩu thì thời gian gần đây, lực lượng hải quan đã phát hiện hành vi gian lận thuế qua giá đối với cả hàng xuất khẩu. Có những trường hợp doanh nghiệp “ẩn lậu” lên tới cả trăm tỷ đồng. Việc thành lập doanh nghiệp để mua bán, sử dụng hóa đơn GTGT bất hợp pháp đang là chiêu bài làm giàu bất chính được nhiều đối tượng sử dụng hiện nay. Loại tội phạm này thường hoạt động dưới phương thức và thủ đoạn là thành lập doanh nghiệp với rất nhiều ngành nghề kinh doanh, thuê nhà với hợp đồng ngắn hạn làm trụ sở công ty để có điều kiện mua hóa đơn GTGT. Sau khi mua được hóa đơn, các đối tượng bỏ trốn khỏi địa chỉ kinh doanh. Chỉ cần dạo qua thị trường và ghé vào bất cứ cửa hàng kinh doanh xe gắn máy nào cũng có thể dễ dàng phát hiện được những thủ đoạn gian lận thuế dưới hình thức ghi hoá đơn không đúng với giá thực bán; một chiếc xe Dylan giá bán trên thị trường khoảng 100 triệu đồng, nhưng trên hoá đơn các cơ sở này bán ra luôn chỉ ghi khoảng 60-70 triệu; chỉ tính riêng năm 2008 (kiểm toán niên độ 2007), Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện nhiều sai phạm trong lĩnh vực thuế như: xác định sai thuế suất thuế GTGT; hạch toán thiếu doanh thu; hạch toán vào chi phí một số khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ (kết quả kiểm toán 235 đơn vị, 21 bộ ngành và 194 đơn vị dự toán thuộc 35 địa phương đã xác định thuế và các khoản phải nộp tăng thêm 164,2 tỷ đồng...); công tác hoàn thuế, xoá nợ và miễn giảm thuế sai quy định thuộc trách nhiệm của các cơ quan thuế (năm 2007 có 11/35 địa phương miễn giảm thuế không đúng đối tượng, miễn giảm tiền thu sử dụng đất sai đối tượng, sai thẩm quyền... 68,1 tỷ đồng...); chi phí vượt định mức (kết quả kiểm toán hồ sơ thuế của 469 doanh nghiệp tại cơ quan thuế 35 tỉnh, KTNN xác định các khoản phải nộp NSNN tăng thêm 452,3 tỷ đồng)...
Theo nguồn tin từ Bộ Công an, các vi phạm có chiều hướng tăng lên theo các năm, cụ thể: nếu năm 1999 chỉ phát hiện 3 vụ vi phạm, năm 2000 lên 17 vụ, năm 2001 phát hiện 64 vụ, thì tính đến hết tháng 8 năm 2002 đã phát hiện 147 vụ vi phạm với tổng số tiền bị chiếm đoạt khoảng 480 tỷ đồng; đã khởi tố 46 vụ, xử lý hành chính 25 vụ... Như vậy, hiện tượng gian lận trong việc khấu trừ, hoàn thuế GTGT không chỉ gây thiệt hại về nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà còn có những tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và sự tăng trưởng của nền kinh tế.

2.     Thực trạng thanh tra và xử lý Tội trốn thuế.

Tội phạm trốn thuế ngày càng có những thủ đoạn tinh vi hơn nữa để thực hiện được mục đích của mình, điều này gây ra không ít khó khăn cho phía cơ quan có thẩm quyền trong phát hiện và xử lý.
Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế nhằm giúp các đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về công tác quản lý thu ngân sách đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành; đánh giá việc chấp hành các luật thuế của các đối tượng nộp thuế và người thu thuế nhằm phát huy nhân tố tích cực, đấu tranh ngăn ngừa và xử lý những mặt tiêu cực; có thể đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện, đưa Luật thuế vào cuộc sống thực tế, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện luật thuế, đồng thời cải cách được các quy trình quản lý thu thuế ngày càng hợp lý hơn; hướng dẫn, giúp đỡ đối tượng nộp thuế nắm được nghĩa vụ và quyền hạn của đơn vị khi thực hiện luật thuế; đồng thời nâng cao trách nhiệm của công chức ngành thuế khi thi hành công vụ; ngăn chặn, phòng ngừa những hành vị tiêu cực, tham nhũng phát sinh, để xây dựng cơ quan thuế trong sạch vững mạnh với đội ngũ cán bộ thuế về phẩm chất đạo đức, giỏi về nghiệp vụ chuyên môn.
Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm là một chức năng thiết yếu đảm bảo cho sự tồn tại và thực hiện các chức năng của quản lí nhà nước. Theo số liệu thông kê từ năm 1999 đến năm 2005, qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã phát hiện nhiều vụ VPPL thuế nghiêm trọng đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan thuế đã chuyển hồ sơ sang cơ quan công an là 1616 vụ vi phạm, thu hồi được cho ngân sách Nhà nước 242,7 tỷ đồng. Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm về thuế của cơ quan thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp với thực trạng của nước ta nói chung, trình độ dân trí nước ta còn thấp, nhân thức và trách nhiệm về pháp luật chưa cao, chưa dựa trên thu thập thông tin và chưa đánh giá, phân tích phân loại mức độ rủi ro của thuế, và đối tượng nộp thuế để thanh tra đúng đối tượng, chưa ứng dụng tốt các chương trình tin học vào việc thanh tra, kiểm tra, xử lí các vi phạm về thuế.
Thêm vào đó liên ngành thuế - công an  trong công tác đấu trnah với tội trốn thuế còn tồn tại nhều bất cập. Việc triển khai quy chế phối hợp tại một số địa bàn còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Công tác nắm bắt tình hình, dự báo, nhận dạng hành ci phạm tội cũng còn hạn chế. Trong khi đó, một số thông tin do hai ngành đã cung cấp cho nhau chưa sát thực, dẫn đến lãng phí thời gian, kinh phí trong việc xác minh….
Vẫn còn tình trạng tay trong, nhận hối lộ của một bộ phận cán bộ, công chức trong ngàn, rất nhiều những hành vi trốn thuế với sô lượng lớn, mức độ nguy hiểm cao hơn bị làm lơ và bỏ qua bởi những “con sâu” của bộ máy Nhà nước này. Nhiều năm qua, năm nào ngành Thuế cũng để xảy ra các sai sót trong công tác chống thất thu. Một phần là do nóng vội, nhưng mặt khác là do lực lượng thanh tra viên quá mỏng và nghiệp vụ chuyên môn còn hạn chế. Thời gian qua vẫn còn không ít trường hợp khi kiểm tra việc nộp thuế, có thanh tra viên cố tình kéo dài thời gian, nhũng nhiễu gây bức xúc trong doanh nghiệp.

3.     Nguyên nhân còn tồn tại thực trạng về tội trốn thuế như hiện nay.

Những con số, những hạn chế còn tồn tại trong quá trình quản lý, xử lý tội trồn thuế có thể kể đến những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật của nước ta còn chưa đồng bộ, nhiều nội dung còn chồng chéo, gây khó khăn cho người thực hiện, còn thiếu các quy định về nguyên tắc tổ chức hoạt động và cơ cấu tổ chức của bộ máy quản lý thuế và nguyên tắc trong quản lý thuế hiện đại. Luật Quản lý thuế năm 2006 chưa xác định rõ cơ chế bảo đảm thực hiện, vì vậy phần nào đã hạn chế tính khả thi của các quy định trong Luật chưa thực sự  khuyến khích tính tuân thủ pháp luật của chủ thể có nghĩa vụ thuế.
Luật quản lý thuế 2006 đã quy định trách nhiệm việc cung cấp các thông
tin, tài liệu của các bên có liên quan cho cơ quan thuế và ngược lại. Tuy nhiên chỉ
cung cấp khi cơ quan thuế có yêu cầu, vì vậy có rất nhiều thông tin cần thiết nhưng
cơ quan thuế không biết được đầu mối để cung cấp thông tin và yêu cầu cung cấp
thông tin, chẳng hạn, thông tin về tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp, thường
các doanh nghiệp mở rất nhiều tài khoản ở các ngân hàng thuộc các địa phương. Điều này sẽ tạo ra sự hạn chế lớn trong quá trình giải quyết các vụ việc, đặc biệt là khi truy cứu trách nhiệm hình sự của tội trốn thuế.
Thứ hai, mức hình phạt đối với tội trốn thuế là còn quá nhẹ, mức phạt cao nhất mà người phạm tội phải chịu chỉ có thể là bảy năm. Trong khi đó nếu xét cề độ tinh vi cũng như nguy hiểm của hành vi, mức hình phạt này sẽ là không tương xứng.
Để thực hiện được hành vi trốn thuế, người pham tội thực hiện những thủ đoạn làm giả giấy tờ, chứng thực, khai gian thuế; tránh gặp mặt hoặc không trình diện cơ quan có thẩm quyền về thuế;  cá nhân không khai đủ số  tiền thu nhập cá nhân để lậu thuế thu nhập… Đây đều là những hành vi, gian dối có chủ định, sắp xếp và được thực hiện trong một thời gian dài. Nếu nhìn vào hậu quả trực tiếp của tội trốn thuế chỉ thấy nó làm hao hụt đi một khoản tiền đáng kể của ngân sách Nhà nước. Phân tích những hậu quả gián tiêp từ việc làm hao hụt đi ngân sách Nhà nước, kéo theo những hệ quả của những chế độ phục vụ cho nhân dân sẽ bị giảm xuống. kinh tế quyết định mọi vấn đề về chính trị, xã hội; không đủ trang trải cho những hoạt động thường ngày của Nhà nước,nói cách khác sẽ làm chậm tiến trình phát triển và đi lên của đất nước. Hơn nữa, đóng thuế là nghĩa vụ chung của mọi cá nhân, tổ chức – không ai được từ chối, đó là công bằng của xã hội, người thu nhập ít thì đóng thuế ít, người thu nhập cao thì đóng thuế cao hơn. Mức độ nguy hiểm trước mắt có thể không nguy hiểm như các tội phản quốc, giết người, giếp dâm hay cướp tài sản kia, nhưng gián tiếp mà nói tội trốn thuế sẽ có thể đưa lại những hậu quả nghiêm trọng hơn: Nhà nước không có ngân sách, các chế độ y tế, trường học không được đảm bảo một cách toàn diện – chất lượng khám chữa bệnh không tốt, chất lườn dạy học không đảm bảo, một mối nguy hại tiềm ẩn mà khi nó bộc phát sẽ là những mạng người, là những tương lai của đất nước; không có ngân sách cầu đường, giao thông…không được tu sửa, xuống cấp kìm hãm sự phát triển, không đảm bảo được những nhu cầu thiết yếu như đi lại của nhân dân…..
Do vậy, nên tăng mức hình phạt của tội phạm này lên cao hơn, nhằm có tính răn đe, trừng trị cao hơn nữa như một số nước hiện nay.
Thứ ba, đối với tội trốn thuế 2 trong 3 khung hình phạt có thể sử dụng hình phạt tiền thay cho hình phạt tù. Còn trên thực tế, phần lớn những trường hợp như thế này,cách giải quyết nhanh gọn nhất phạt tiền, nếu vậy thì không khác mấy so với phạt hành chính những vi phạm về thuế thông thường khác. Xử lý như vậy không có tính răn đe cao, không làm gương được cho những người khác.
Thứ tư, chất lượng làm việc của thanh tra, các cơ quan có chức năng còn chưa thật sự hiệu quả, thậm chó có dấu hiệu của sự bao che, tay trong.
Theo quy định của Luật Quản lý thuế và Luật Hình sự thì khi phát hiện hành vi trốn thuế trên 50 triệu đồng, cơ quan thuế phải chuyển hồ sơ sang cơ quan công an điều tra xử lý hình sự. Thế nhưng, với dấu hiệu trốn thuế hàng tỷ đồng của nhiều đơn vị, sao các cơ quan chức năng làm lơ? Việc bán hàng với giá không thuế là chiếm thuế của nhà nước, còn việc bán hàng không xuất hóa đơn đã là hành vi trốn thuế. Vậy nhiều công ty, siêu thị, trung tâm trốn thuế rành rành, ai cũng thấy, sao vẫn chưa có đơn vị nào bị xử lý? Hầu hết các đơn vị không xuất hóa đơn này đều khai báo thuế âm, hàng năm họ chỉ lời trong vài tháng tết, sau đó là khai báo lỗ, số tiền cộng dồn cả năm được cấn trừ cho mấy tháng tết là coi như xong, gần như chẳng nộp đồng VAT nào cho nhà nước cả.
Phải chăng bán hàng không xuất hóa đơn nên DN báo cáo sao, cơ quan thuế… biết vậy, mà không có cơ sở để đối chiếu đầu vào – đầu ra. Nếu vậy, việc cần làm trước tiên là kiểm tra việc thực hiện hóa đơn chứng từ. Bởi theo điều tra của chúng tôi, hầu hết DN bán hàng không xuất hóa đơn thì khai thuế rất ít, trong khi nơi xuất hóa đơn thì kê khai đầy đủ. Cụ thể, trong tháng 6, Công ty CP Thế giới di động, đơn vị bán hàng có xuất hóa đơn, khai doanh số bán ra đến 110 tỷ đồng/tháng, trong khi đó các đơn vị không xuất hóa đơn thì khai rất ít như: Phong Vũ 30 tỷ đồng, Hoàng Long 54 tỷ đồng, Phan Khang 29 tỷ đồng… Đến hoạt động kinh doanh của nhà hàng cũng thế, lượng khách của nhà hàng Lion so với nhà hàng Hoa Viên (Mạc Đĩnh Chi) tương đương nhau. Nhưng ở Lion xuất hóa đơn cho khách nên báo cáo doanh số tháng 6 là 4,6 tỷ đồng, trong khi Hoa Viên không xuất hóa đơn và bán hàng với giá không thuế nên doanh số bán ra chỉ khai 1,3 tỷ đồng, bằng 30% của Lion. Những bất hợp lý này sẽ được chúng tôi “đặt lên bàn” của các cơ quan chức năng.
Công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm của các cơ quan chức năng cũng chưa được quyết liệt, nên nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng lỗ hổng này để khai man trốn thuế.
- Thiếu sự quyết liệt trong xử phạt, chế tài để xử phạt hành vi vi phạm chưa đủ mạnh để răn đe, việc bị phạt vài ba trăm hay ba triệu do với cái lợi của hàng trăm triệu, hàng tỷ trở lên thì phạt thế không hiệu quả. Hiện nay hình phạt cao nhất quy định tại BLHS năm 1999 là 7 năm tù còn mức phạt tiền cao nhất quy định tại BLHS năm 1999 là 7 năm còn mức phạt tiền cao nhất chỉ giới hạn bằng 3 lần số tiền thuế trốn. Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hóa đơn không trung thực khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ dồng. Có vụ án, một cá nhân chiếm đoạt nhiều tỉ đồng tiền thuế. Nếu không xử lý quyết liệt thì luật pháp không còn tính răn đe. Do đó, tình hình tội phạm liên quan đến thuế, mặc dù đã được công luận cảnh báo cơ quan chức năng, vẫn phát triển nhanh, đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về số tiền thuế chiếm đoạt.
- Cơ quan thuế chưa thực sự chủ động trong công tác quản lý thuế. Một số cán bộ thuế chưa làm tròn trách nhiệm thậm chí thoái hóa, biến chất vì tư lợi riêng để lợi dụng. Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân ăn cắp tiền thuế.
Nguyên nhân mang tính chất chủ quan là ý thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân công dân. Đóng thuế là một nghĩa vụ bắt buộc nhưng việc thực hiện nó trước hết là dựa vào ý chí, tự nguyện, sự nhận thức đúng đắn của mỗi cá nhân, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, việc truy cứu Trách nhiệm pháp lý hay trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi ý thức này không tồn tại. Nghĩa vụ luôn đi kèm với đó là các quyền và lợi ích nhất định mà các chủ thể được hưởng, mặc dù thuế là khoản phí nạp không hoàn lại, nhưng đó chính là khoản phí dùng để xây dựng những công trình, những địa điểm phục vụ dân, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu tối thiểu, đảm bảo an ninh cho xã hội.
Ở cả hai lĩnh vực xử lý hành chính và xử lý hình sự đều đang gặp không ít khó khăn, đơn cử như xử lý hành chính, cơ quan ra quyết định mà các đối tượng không chấp hành, rồi lại để đó không làm đến nơi đến chốn, điều đó đồng nghĩa vô hiệu hóa các quyết định có tính pháp lý của cơ quan chức năng; còn xử lý hình sự thì lại càng hết sức khó khăn nên hai Bộ Công an, Bộ Tài chính và hai tổng cục cần ngồi lại với nhau để tháo gỡ, bàn bạc cụ thể.

CHƯƠNG III. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ VỀ TỘI TRỐN THUẾ VÀ CÁC VI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN THUẾ KHÁC.


Trước những phân tích, đánh giá trên cho thấy mặc dù không phủ nhận những thành tựu, công lao đã có được từ các văn bản, hướng dẫn liên quan đến thuế nhưng thực chất những quy định, những hoạt động liên quan đến thuế còn nhiều hạn chế và cần có những biện pháp thích hợp để khắc phục.
Đầu tiên là hoàn thiện hành lang pháp lý và chính sách về thuế, tọa ra sự đồng bộ giữa giữa các văn bản pháp luật liên quan đến các vấn đề về thuế hiện nay.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật và các chính sách về thuế của Nhà nước đảm bảo khoa học, chặt chẽ và có tính ổn định lâu dài, tránh sự thay đổi quá nhanh và nhiều làm cho các nhà quản lý thuế và người nộp thuế rơi vào tình trạng lúng túng trong thi hành, gây nên sự hoài nghi của các nhà đầu tư, làm phương hại đến lợi ích của người nộp thuế, tăng trưởng kinh tế và lợi ích của quốc gia. Tôn trọng thuộc tính trung lập của hệ thống thuế hiện đại, hạn chế tối đa các quy định miễn giảm, khấu trừ làm xói mòn những mục tiêu cốt lõi của thuế, dễ gây nên tình trạng trốn, lậu thuế.
 Hơn nữa, cần đảm bảo quá trình cải cách hệ thống thuế phải gắn chặt với vấn đề cải cách quan hệ tài khoá giữa các cấp chính quyền, năng lực quản lý hành chính thuế, khả năng thu thuế và “văn hoá” của người nộp thuế, như vậy mới tạo ra sự quan tâm, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương đối với việc triển khai thực hiện hệ thống thuế mới.
       Hai là, hoàn thiện phương thức quản lý thu thuế. Để triển khai có hiệu quả các quy định của pháp luật về thuế, cơ quan thuế phải chú ý hoàn thiện các phương thức quản lý thu thuế, từ đó mà ngăn ngừa được những vi phạm, tội phạm trồn thuế cụ thể như sau:
- Thống nhất sử dụng đồng bộ công nghệ thông tin vào việc quản lý thu thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng, nối mạng vi tính trên toàn quốc nhằm thực hiện tốt việc kiểm tra đối chiếu hoá đơn, chứng từ đầu vào, đầu ra.
- Hoàn thiện quy trình quản lý thu thuế theo hướng đơn giản, khoa học và hiệu quả trên cơ sở kết quả rà soát lại các sơ hở trong công tác hoàn thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng.
- Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ thuế.
- Khen thưởng kịp thời các cá nhân và tập thể chấp hành tốt nghĩa vụ thuế với Nhà nước và áp dụng các hình thức xử lý nghiêm minh trong công tác hành thu và chấp hành luật thuế.
- Quy định bắt buộc đối với doanh nghiệp khi thực hiện tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng và tin học hoá công tác tài chính - kế toán.
- Các cơ quan chức năng của Nhà nước như thanh tra, điều tra và kiểm toán phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý thu thuế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
Ba là, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có liên quan như kiểm toán nhà nước, viện kiểm sát, công an…
Bảo vệ pháp luật, đưa lại sự công bằng cho xã hội là trách nhiệm của bất kì cơ quan nào, bất kì công dân nào. Chống thất thu thuế không phải là một vấn đề nan giải, song cần phải xác định đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ bằng những quan điểm, chính sách và biện pháp xử lý thích hợp trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế - xã hội. Trên hết là cần sự phối hợp, hỗ trợ giữa cơ quan thuế và các cơ quan nhà nước khác.
Thứ tư, đảm bảo sợ rõ ràng, cụ thể, chính xác hơn trong việc kiêm tra thuế, qua đó phát hiện kịp thời các vi phạm về thuế và đặc biệt là tội phạm trốn thuế.
Để rõ ràng minh bạch trong công tác quản lý thuế của các cán bộ theo dõi địa bàn, các cơ quan thuế cần lập đội kiểm tra liên ngành kiểm tra chéo một cách đột xuất, có thể cán bộ thuế đóng làm khách hàng, đi mua hàng xem đơn vị có xuất hóa đơn hay không, rồi lấy chứng từ đó đối chiếu trong báo cáo thuế xem DN có khai báo sản phẩm hàng mình mua không. Cục Thuế TPHCM cũng cần xây dựng cơ sở dữ liệu thật đầy đủ, cập nhật các thông tin báo cáo của DN trên mạng, để từ đó kiểm tra con đường luân chuyển của từng nguồn hàng, chẳng hạn như lô hàng bán từ công ty A, sang B, sang C và bán ra như thế nào… Điều này sẽ chấm dứt các báo cáo sai sự thật, và sẽ hạn chế việc cán bộ quản lý thuế trên địa bàn “bảo kê” cho DN, bị dư luận phản đối lâu nay. Đối với các DN bán lẻ lớn, đề nghị Cục Thuế TP thực hiện phối hợp niêm phong máy tính tính tiền ở cửa hàng và nối mạng trực tuyến với cơ quan thuế, khi cửa hàng bán sản phẩm, in hóa đơn tính tiền cho khách thì cán bộ thuế ngồi ở cơ quan có thể thấy ngay được doanh số. Cách làm này đã được nhiều quốc gia thực hiện. Khi làm chặt chẽ quy trình này thì sẽ kiểm soát được việc trốn thuế của DN và dễ dàng phát hiện nguồn gốc hàng lậu.
Mặt khác, cơ quan thuế cần đề nghị tăng mức phạt thật nặng đối với những đơn vị vi phạm, vì mức phạt của chúng ta hiện nay cao nhất cũng chỉ gấp 3 lần số thuế trốn, như vậy chưa đủ sức răn đe. Ở Mỹ, chỉ cần quên khai doanh thu 1 tô phở 12 USD là sẽ bị phạt đến 10.000 USD, nếu tái phạm là phải đóng cửa.
Về phía người dân, bên cạnh việc kêu gọi, thuyết phục phải có ý thức lấy hóa đơn khi mua hàng. Đồng thời, để tạo được phong trào này, nên chăng Bộ Tài chính in hóa đơn có số sêri xổ số trúng thưởng, mỗi tháng xổ số một lần với giải thưởng thật lớn. Như vậy, sẽ kích thích và tạo thói quen cho người dân khi mua hàng phải nhận hóa đơn.
Tăng cường sự kiểm tra, thanh tra trong nội bộ cơ quan cũng như của các cơ quan nhà nước khác với cơ quan thu thuế. Trong hoạt động quản lí nhà nước, hoạt động thanh tra, kiểm tra mang tính tất yếu. Trong lĩnh vực thuế, thanh tra trong nội bộ ngành là điều kiện cần thiết để phát hiện các trường hợp mà cán bộ thuế không thực hiện đúng nhiệm vụ mà pháp luật yêu cầu. Ngoài việc tăng cường sự kiểm tra nội bộ thì chúng ta cũng cần phải tăng cường sự kiểm tra của nhân dân đối với cơ quan, cán bộ thu thuế. Khi chịu sự giám sát của cả trong và ngoài thì chắc hẳn những hành vi vi phạm sẽ sớm bị phát hiện và xử lí kịp thời.
Trên hết để phòng chống được tội trốn thuế cũng như những vi phạm về thuế khác cần nâng cao trách nhiệm, ý thức của người dân, các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế. Điều này trước giờ vẫn được thực hiện băng các buổi tuyên truyền, vận động tại địa phương; thực hiện các chuỗi phim ngắn về hoạt động đóng thuế…Cần cho người dân hiểu được rằng đóng thuế để làm gì, vì sao phải đóng thuế? Việc đóng thuế như vậy sẽ có được những lợi ích gì cho bản thân. Có được sự nhận thức đúng đắn như vậy, các cá nhâ, doanh nghiệp sẽ chủ động trong việc khai thuế và đóng thuế.
Thứ năm, xem xét lại mức hình phạt đối với tội trốn thuế, nên tăng mức hình phạt lên 10-15 năm tù – đồng thời tăng mức độ vi phạm với từng mức khung hình phạt. Mặt khác phía Tòa án phải đưa ra những đánh giá chính xác, cụ thể để lựa chọn hình phạt phù hợp nhất, có như vậy mới thực hiện được mục đích trừng trị và răn đe của pháp luật.
Thứ sáu, có thể cho phép một cách rộng rãi các doanh nghiệp tự in và tự chịu trách nhiệm về hóa đơn của mình. Bộ tài chính đã thí điểm cho một số doanh nghiệp tự in hóa đơn và kết quả thu được là rất tốt. Vì vậy, Bộ nên cho phép làm thật mà không cần phải thí điểm nữa. Một khi doanh nghiệp đã tự in được hóa đơn thì cũng sẽ quản lý được hóa đơn của mình chặt chẽ hơn, giúp hạn chế được tình trạng mua – bán hóa đơn giá trị gia tăng rất phổ biến hiện nay và làm giảm những hành vi trốn thuế, gian lận thuế của các doanh nghiệp.



KẾT LUẬN
Trước tình hình tội phạm trốn thuế ngày càng phức tạp và tinh vi, các cấp thâm quyền cần có những hành động thiết thực hơn nữa để ngăn chặn được loại tội phạm này.  Đối với bất kỳ một quốc gia nào thì thuế cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng và chiếm phần lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Việc thực thi một số chính sách thuế có hiệu quả sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu này và từ đó tạo điều kiện để mở rộng sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, đất nước. ở Việt Nam theo thống kê của Tổng cục thuế thì 92% ngân sách Nhà nước là thu từ thuế nên cần phải có phương pháp tính hợp lý nhằm đảm bảo sự công bằng cho các đối tượng nộp thuế kết hợp với việc hạch toán thuế tại các doanh nghiệp phải theo đúng chế độ kế toán, tài chính và quy định của pháp luật.

1. Giáo trình Luật thuế Việt Nam. Trường đại học Hà Nội. NXB Tư pháp.
2. Luật quản lí thuế năm 2006.
3. Bài viết: Pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế ở Việt Nam. Tác giả: ThS Vũ Ngọc Hà và ThS Vũ Văn Cương. Tạp chí Luật học số 4/2009/
4. Giáo trình Luật Hình sự 2 .Trường Đại học Luật Hà Nội.
5. Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
4. Các trang web:
- http://www.doko.vn/tai-lieu/nguyen-nhan-cua-tinh-trang-tron-lau-va-gian-lan-thue-o-nuoc-ta-hien-nay-196403
- http://vietq.vn/mobile/19/phap-luat/ho-so/181-luat-hinh-su-bo-qua-vi-pham-moi-ve-tai-chinh
- http://luanvan.co/luan-van/giai-phap-phong-chong-vi-pham-phap-luat-trong-linh-vuc-hoan-thue-gia-tri-gia-tang-tai-thanh-pho-ho-chi-minh-8591/
-http://old.voer.edu.vn/module/kinh-te/phan-loai-thue.html
- http://ketoanhoc.edu.vn/vai-tro-cua-thue-trong-nen-kinh-te-thi-truong.html
-http://www.anninhthudo.vn/Phap-luat/Vach-mat-nhieu-thu-doan-tron-thue/509899.antd


0 nhận xét:

Đăng nhận xét