Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2014

Một số nội dung trong các tác phẩm HCM sau 1945

PHẦN I: MỞ ĐẦU

Sinh ra vµ lín lªn tr­íc c¶nh n­íc ta ®· r¬i vµo tay thùc d©n Ph¸p vµ sù b¹c nh­îc ®Çu hµng cña triÒu ®×nh phong kiÕn nhµ NguyÔn, víi lßng yªu n­íc nång nµn cña m×nh, ngµy 5.6.1911 Ng­êi thanh niªn NguyÔn TÊt Thµnh ®· rêi bÕn c¶ng Nhµ Rång ra ®i t×m ®­êng cø n­íc, cøu nh©n d©n khái sù ¸p bøc bãc lét cña bän thùc d©n, phong kiÕn. Tr¶i qua mét qu¸ tr×nh dµi lao ®éng, häc tËp, ho¹t ®éng b«n ba kh¾p c¸c n­íc n­íc trªn thÕ giíi. Th¸ng 7.1920 NguyÔn TÊt Thµnh ®· tiÕp xóc víi LuËn c­¬ng cña Lªnin vÒ vÊn ®Ò d©n téc vµ thuéc ®Þa vµ ®· t×m ra con ®­ßng cøu n­íc míi cho d©n téc ViÖt Nam- con ®­êng c¸ch m¹ng v« s¶n.
Sau khi ®Õn víi chñ nghÜa M¸c-Lªnin vµ t×m ra con ®­êng cøu n­íc, NguyÔn ¸i Quèc ®· tÝch cùc ho¹t ®éng trong §¶ng céng s¶n Ph¸p, trong phong trµo c«ng nh©n vµ nh©n d©n Ph¸p. Th¸ng 6.1923 Ng­êi ®Õn Liªn X« tham dù §¹i héi Quèc tÕ N«ng d©n, tham dù ®¹i héi V Quèc tÕ céng s¶n. Th¸ng 11.1924 NguyÔn ¸i Quèc vÒ Qu¶ng Ch©u-Trung Quèc, t¹i ®©y Ng­êi thµnh lËp Héi ViÖt Nam c¸ch m¹ng thanh niªn, xuÊt b¶n b¸o Thanh Niªn, më c¸c líp huÊn luyÖn chÝnh trÞ… Trong thêi gian nµy b»ng sù ho¹t ®éng kh«ng mÖt mái cña m×nh, NguyÔn ¸i Quèc ®· chuÈn bÞ c¸c ®iÒu kiÖn vÒ chÝnh trÞ, t­ t­ëng vµ tæ chøc cho sù ra ®êi mét chÝnh ®¶ng c¸ch m¹ng ë ViÖt Nam. Ngµy 3.2.1930 NguyÔn ¸i Quèc ®· chñ tr× Héi nghÞ hîp nhÊt c¸c tæ chøc céng trong n­íc thµnh lËp §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam. §Çu n¨m 1941 NguyÔn ¸i Quèc ®· vÒ n­íc trùc tiÕp l·nh ®¹o c¸ch m¹ng ViÖt Nam vµ hoµn chØnh ®­êng lèi cøu n­íc ®­îc nªu ra trong C­¬ng lÜnh chÝnh trÞ ®Çu tiªn, nhê ®ã mµ khi ®iÒu kiÖn ®Õn Ng­êi ®· l·nh ®¹o toµn §¶ng, toµn d©n ta ®øng lªn tiÕn hµnh cuéc tæng khëi nghÜa trong th¸ng 8.1945 th¾ng lîi lËp ra n­íc ViÖt Nam d©n chñ céng hoµ. §©y lµ th¾ng lîi ®Çu tiªn cña t­ t­ëng Hå ChÝ Minh.
         
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đất nước chúng ta được độc lập, Đảng đã giành được quyền lãnh đạo đối với nhân dân, một nhà nước mới của nhân dân ra đời, nhưng cũng trong giai đoạn này đất nước chúng ta cũng đứng trước muôn vàn thử thách khó khăn, đó là chúng ta phải đương đầu với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Do đó, yêu cầu đặt ra cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là phải củng cố được niềm tin, đoàn kết, động viên toàn thể nhân dân tham gia vào cuộc kháng chiến; tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh; nâng cao giáo dục, bồi dưỡng và rèn luyện những phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên …  Và đó cũng là một số những nội dung cơ bản được Hồ Chí Minh bàn đến trong một số tác phẩm của Người được viết sau 1945. Nhờ những tư tưởng đó của Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân ta đã đoàn kết một lòng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được được thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến bảo vệ đọc lập dân tộc.
          Trong số các tác phẩm của Hồ Chí Minh được viết sau cách mạng tháng Tám đã đề cập rất nhiều đến các vấn đề này, nhưng do giới hạn nghiên cứu của tiểu luận và năng lực nhận thức có hạn cho nên tiểu luận chỉ tập trung vào làm sáng tỏ một số những vấn đề về đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, về Đảng, về xã hội mới mà nhân dân ta đang xây dựng trong một số tác phẩm của Hồ Chí Minh được viết sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
PHẦN II: NỘI DUNG

1. Vấn đề đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Người đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên và nhân dân. Theo Người đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Cũng như “sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo, người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” .

Về đạo đức cách mạng, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra 5 tiêu chuẩn ngắn gọn, súc tích và tiêu biểu của người cán bộ đảng viên gồm: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.

Nhân là thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào; kiên quyết chống lại những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ, không tham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền.

Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải dấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng; lúc Đảng giao cho việc gì, bất kỳ to nhỏ đều ra sức làm cẩn thận; thấy việc gì phải thì làm, thấy việc gì đúng thì nói. Không sợ người ta phê bình mình mà phê bình người khác cũng luôn đúng đắn.
Trí là biết xem người, biết xét việc, vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, để phòng người gian. Điểm mấu chốt trong chữ trí nắm vững, sử dụng lý luận, kiến thức để nhìn nhận, cất nhắc người có khả năng chứ không phải xét qua loa hình thức, hời hợt.

Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết phải có gan sửa chữa, cực khổ, khó khăn có gan chịu đựng, có gan chống lại những vinh hoa, phú quý không chính đáng, nếu cần dám hy sinh tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không rụt rè, nhút nhát.
Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không ham sung sướng, không ham người tâng bốc, xu nịnh mình. Vì vậy mà quang minh chính đại không bao giờ thoái hóa, chỉ có một thứ ham học hành, ham làm, ham tiến bộ.
Cùng với việc giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên, cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở mọi người tránh xa mọi thói hư tật xấu. Người cho rằng, những người có thói hư tật xấu là do chủ nghĩa cá nhân. "Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm". Do chủ nghĩa cá nhân mà mắc vào bệnh: tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ và những bệnh khác như "hữu danh vô thực", kéo bè kéo cánh, bệnh cận thị không trông xa thấy rộng, bệnh "cá nhân", v.v...
Trước lúc đi xa, trong bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân đăng báo Nhân Dân ngày 3-2-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở trong Đảng ta bên cạnh rất nhiều đảng viên tốt vẫn "còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém". Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân. "Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ". "Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân".
Phẩm chất đạo đức như Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy đã khái quát tiến bộ mối quan hệ của người cán bộ đảng viên với Tổ quốc, với nhân dân, với đoàn thể và cá nhân. Nó phản ảnh quá trình từ tình cảm đến nhận thức trách nhiệm và ý chỉ cách mạng, hành động cách mạng. Theo người, khuyết điểm, sai lầm lớn nhất của cán bộ đảng viên thường mắc phải là chủ nghĩa cá nhân. Từ đó sinh ra các bệnh tham ô, hối lộ, hủ hóa, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, lãng phí... Những khuyết điểm đó làm nguy hại đến uy tín của Đảng, giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng.

Người yêu cầu “Phải giáo dục đảng viên và cán bộ, kiên quyết cảm hóa những phần tử xấu, sửa chữa những thói xấu còn lại. Phải cố sửa chữa cho triệt nọc các chứng bệnh kiến cho Đảng càng mạnh khỏe bình an”. Còn “các đảng viên cán bộ cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình, luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên”.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng non trẻ lại trong hoàn cảnh vừa kháng chiến vừa kiến quốc, với trách nhiệm người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm của bệnh chủ nghĩa cá nhân của những khuyết điểm, sai lầm của một số cán bộ đảng viên có tư tưởng công thần địa vị và Người có thái độ dứt khoát, kiên quyết với thói hư tật xấu để bảo vệ uy tín của Đảng, bảo vệ thành quả của cách mạng.



2. Vấn đề đoàn kết trong cách mạng
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo guơng đạo đức Hồ Chí Minh”; đọc lại tác phẩm Di chúc của Người, những lời dạy trong Di chúc mà Bác để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân mãi mãi là lời dạy thiêng liêng nhất.
Di chúc được Bác viết với sự suy tư sâu sắc, đầy trách nhiệm với dân tộc, với non sông đất nước, bằng sự cân nhắc từng ý, từng lời rất tình cảm và thận trọng thể hiện nỗi trăn trở của một con người luôn tha thiết yêu đời; nặng lòng với dân, với nước của một Người chỉ biết hy sinh phấn đấu cho nền độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân Trong bài viết này, chúng tôi xin nêu vấn đề mà được Bác nhắc đến nhiều nhất trong Di chúc đó là vấn đề đoàn kết. 
  Bác nói về Đảng, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Bác khẳng định Đảng lấy phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc làm mục đích cao nhất. Đảng không được xa rời mục đích ấy. Ngoài mục đích ấy Đảng không có mục đích nào khác. Muốn đạt được mục đích đó, Đảng phải thật sự đoàn kết chặt chẽ. Trong Đảng phải có tổ chức, phải thương yêu đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, không vì mưu lợi cá nhân, chức quyền địa vị mà sinh ra chia rẽ, mâu thuẫn mất đoàn kết làm suy yếu Đảng. Bác khẳng định chính nhờ đoàn kết mà Đảng có sức mạnh để chiến thắng mọi kẻ thù, để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết trong chiến đấu, hy sinh gian khổ cận kề với cái chết đã khó, đã cần; song đoàn kết trong đấu tranh giải quyết hài hòa giữa quyền lợi cá nhân, với lợi ích, quyền lợi chung của tập thể, của nhân dân, của đất nước còn khó hơn nhiều. Bởi vì như Bác thường dạy, đó là chủ nghĩa cá nhân. Bác dạy chúng ta để chiến thắng nó phải có dũng khí, phải có bản lĩnh và Đảng phải giữ vững truyền thống đoàn kết.
Bác căn dặn tất cả các cán bộ, đảng viên, các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải ý thức rõ, và giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, phải thật sự tôn trọng kỷ luật, tôn trọng đồng chí, không tự cao tự đại cho mình là giỏi giang, là tài năng, coi thường kỷ luật coi thường mọi người dẫn đến kiêu căng, độc đoán chuyên quyền, nịnh bợ cấp trên, coi thường cấp dưới, tạo vầng hào quang giả cho mình để tiến thân. Khẳng định sự đoàn kết và vai trò quyết định của đoàn kết trong việc phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng, Bác không quên căn dặn mọi người phải thực hiện nguyên tắc dân chủ. Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình. Đây là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Đoàn kết và dân chủ là hai mặt của một vấn đề tạo nên sức mạnh nội tại của Đảng. Càng thực hiện dân chủ trong Đảng, càng đoàn kết nội bộ, từ đó mà Đảng thống nhất ý chí và hành động, Đảng có sức mạnh vật chất, tinh thần dời non lấp biển. Ngược lại thiếu dân chủ, độc đoán chuyên quyền sẽ gây nên sự phân tâm, làm rạn nứt khối đoàn kết, dẫn đến suy yếu, thậm chí tan rã Đảng. Chính vì vậy khi nói về Đảng, Bác tập trung nói về sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; nói về dân chủ trong Đảng. Bởi lẽ chỉ có đoàn kết và dân chủ, Đảng mới vững và thật sự lành mạnh. Thực tế Người cũng đã thấy có những đảng do mất đoàn kết, mất dân chủ mà suy yếu, đổ vỡ. Bác đau lòng khi nói về sự rạn nứt, bất hòa giữa các Đảng anh em. Cho nên đây là nỗi day dứt, băn khoăn, sự lo lắng lớn nhất của Người trước lúc đi xa; là lời tâm huyết từ đáy lòng của một lãnh tụ, một người đã dành cả đời mình cho việc thành lập Đảng, xây dựng Đảng, cho việc lãnh đạo Đảng, để Đảng mãi mãi xứng đáng và làm tròn sứ mạng lịch sử thiêng liêng, cao cả với dân tộc.
          Bác mong Đảng ta cũng như mỗi cán bộ, đảng viên thật sự đoàn kết, thật sự dân chủ trên cơ sở thật sự vì nước, thật sự vì dân, thật sự vì Tổ quốc. Mỗi đảng viên, cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng; thể hiện tình đoàn kết với dân ở chỗ phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không xa rời dân, không mắc bệnh quan liêu, cửa quyền hống hách với dân. Mọi công việc Đảng phải đặt lợi ích của dân ở hàng đầu; đảm bảo thực hiện trọn vẹn quyền lợi chính đáng cho mọi công dân, đảm bảo Đảng là Đảng của dân, Đảng vì dân. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
“Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” - Lời dạy thiêng liêng của Bác có những việc chúng ta đã làm, đang làm và sẽ làm với tình cảm lớn lao, ý thức trách nhiệm và niềm tin vững chắc. Chúng ta là người Việt Nam, là con cháu Bác Hồ, là người trung thành với mục tiêu lý tưởng cao cả của Người, không ai không khỏi suy nghĩ về những lời dạy thiêng liêng của Bác trước lúc Người đi xa. Chúng ta coi đó là lời Di huấn lịch sử định hướng cho chúng ta đi; là sức mạnh, là niềm tin vững chắc cho chúng ta bước lên phía trước; là nghị lực để chúng ta vượt qua những khó khăn thách thức; là tinh thần lạc quan cách mạng để xiết chặt đội ngũ, đoàn kết toàn dân hướng về tương lai xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

3. Về Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một Nhà nước do Ðảng Cộng sản lãnh đạo là Nhà nước kiểu mới, khác về bản chất và tổ chức so với Nhà nước của các giai cấp bóc lột. Ðó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân và  nhân dân là người chủ thực sự. Ðảng Cộng sản cầm quyền là lực lượng chính trị lãnh đạo Nhà nước cùng toàn thể xã hội. Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Ðảng có trách nhiệm vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn để lãnh đạo Nhà nước và nhân dân cùng thực hiện, nhưng đồng thời, Ðảng cũng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về tất cả những kết quả đúng - sai, thành công - thất bại theo định hướng mà Ðảng đã đề ra.
Hiểu rõ bản chất và vai trò lãnh đạo của Ðảng nên từ năm 1947, Người đã viết cuốn Sửa đổi lối làm việc để xây dựng cách lãnh đạo và lề lối làm việc, làm cẩm nang cho cán bộ đảng viên trong điều kiện Ðảng cầm quyền. Sau khi tổng hợp và vạch rõ những căn bệnh bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân có thể làm ảnh hưởng đến uy tín và danh dự, thậm chí phá hỏng cả sự nghiệp vẻ vang của Ðảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, trước hết là lãnh đạo chủ chốt thật sự có đức, có tài, tiêu biểu cho trí tuệ,danh dự, lương tâm của Ðảng Cộng sản. Qua thực tiễn hoạt động và những thành quả cách mạng đã đạt được, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một số bài học mà chúng ta cần nghiêm túc nghiên cứu, áp dụng sáng tạo trong hoàn cảnh Ðảng ta đang kiên trì và nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng Ðảng, vững mạnh trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Ðó là một chân lý nhất định". Ngay từ khi chính quyền cách mạng nhân dân được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời những nhân sĩ, học giả, trí thức của xã hội cũ ra làm việc và tham gia vào công tác chính quyền. Tất cả những ai có chuyên môn, cần dùng vào lĩnh vực nào nếu có nhiệt tâm đều được trọng dụng. Bên cạnh việc đào tạo và rèn luyện đội ngũ cán bộ cần kiệm liêm chính, chí công vô tư làm công bộc cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi các ngành các cấp và địa phương tìm và tiến cử nhân tài để kiến quốc. Nhờ sự góp sức đồng lòng của toàn dân, toàn quân mà cuộc kháng chiến trường kỳ của ta thắng lợi vẻ vang và sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Ðảng từng bước phát triển bền vững. Ngày nay, các thế hệ cán bộ của chúng ta được đào tạo cơ bản, đầy đủ, chính quy với số lượng đông đảo thường xuyên nhưng thực tế chất lượng cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, không ít cán bộ lãnh đạo sa vào tham nhũng, lãng phí, quan liêu khiến nhân dân bất bình, giảm lòng tin. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: "Trong các ngành hoạt động của chúng ta, nào chính trị, kinh tế, nào quân sự, văn hóa, chắc không thiếu những người có năng lực, có sáng kiến như A. Nhưng vì cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo. Thí dụ: Bắt buộc cán bộ trong mỗi ngành phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài" .
Chính sách thì đúng, cách làm thì sai:
Những đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước ban hành hoàn toàn đúng, nhưng xuống đến các địa phương thì bị thực hiện sai lệch hoặc thực hiện không đến nơi đến chốn, đánh trống bỏ dùi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét nguyên nhân của sự việc là vì chúng ta không xét đến nguyên nhân cơ bản: trách nhiệm và năng lực của những người thi hành chính sách, một điều rất đơn giản: "Tức là vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". Như vậy, những người cụ thể điều hành và chỉ đạo chính sách thực tế ở cơ sở cũng quan liêu, không kiểm tra, kiểm soát sát sao, mà cũng có thể do chủ quan, kế hoạch không ăn khớp với hoàn cảnh, lý thuyết áp dụng chéo chân, cốt lấy thành tích cho xong chuyện, kết quả là công sức, tiền của, chất xám, thời gian đổ vào đầu tư đều phí phạm. Thí dụ, khẩu hiệu dạy tốt - học tốt của ngành giáo dục. Chủ trương thì đúng nhưng thực tế là rất nhiều trường chạy đua lấy thành tích cao, lấy tiếng trường điểm nên đối phó, nâng điểm, chữa điểm, dễ dãi trong thi cử và ghi học bạ theo yêu cầu cho nên học sinh mất gốc, giáo viên biến chất. Thậm chí tại một trường PTTH chuẩn của thành phố Hà Nội, người ta còn sửa điều cuối trong 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng thành: Tăng cường rèn luyện sức khỏe để phục vụ cho phong trào thể dục thể thao nhà trường! Ngoài ra, một số địa phương cũng chạy theo thành tích, tất cả vì thành tích và danh hiệu cho nên thi đua ồ ạt, đã thiếu kinh nghiệm lại thêm nóng vội kết quả cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng. Cũng vì thế nên Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Bất kỳ việc gì, chúng ta phải bắt đầu từ gốc, dần dần đến ngọn, từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, chớ nên tham mau, tham nhiều trong một lúc" .
Phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái:
Trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta, trải qua các cuộc kháng chiến trường kỳ anh dũng, chúng ta đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu và sản xuất, phát huy nhiều sáng kiến và khích lệ tinh thần hăng hái cống hiến của quân và dân ta. Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì dường như những sáng kiến và sự hăng hái không bằng thời kỳ trước. Cũng có nhiều cá nhân và tập thể doanh nghiệp đưa ra nhiều công trình, phát minh trong lĩnh vực khoa học, công nghệ vì nhu cầu thực tế và phát triển kinh doanh nhưng trong các cơ quan hành chính sự nghiệp thì phần nhiều ý tưởng tự phát chứ chưa phải tự giác. Muốn phát huy được sáng kiến và lòng hăng hái thì phải đầu tư điều kiện phát triển về cả tinh thần và vật chất mà trong đó, như Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ rằng, chính cách lãnh đạo không được dân chủ và công tác tư tưởng không được tích cực là nguyên nhân cản trở sáng kiến và làm nguội nhiệt tình. Hiện tượng này cụ thể là: "Ðối với những người lãnh đạo, các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau... Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì có gì không dám nói ra" . Chính vì những ấm ức, bức xúc để bụng nên cán bộ không thoải mái hăng hái đưa ra sáng kiến, họ sẽ dùng nhiều thời gian vàng ngọc xả bớt những chán nản dồn nén, sinh ra hiện tượng không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng và nhiều thói xấu khác nữa. Ðể giải quyết triệt để hiện tượng này thì cấp trên cũng nên thỉnh thoảng trưng cầu ý kiến phê bình của cấp dưới và đồng thời người lãnh đạo: "Phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa" . Khi đã thoải mái, hăng hái rồi ắt sẽ có sáng kiến. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng hai chữ sáng kiến không nên sử dụng một cách mênh mông không thiết thực, chỉ nêu ra để đấy hoặc không khả thi, làm không mang lợi chỉ thêm tốn tiền của công sức tập thể sẽ trở thành tối kiến. Chúng ta cũng nên xác định rằng: "Sáng kiến không phải cái gì kỳ lạ. Nó chỉ là kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, trong những điều kiện rất tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực". Cách hữu hiệu nhất để phát huy sáng kiến và lòng hăng hái là mở rộng dân chủ, khuyến khích cán bộ đảng viên ham học hỏi, nghiên cứu sáng tạo và lãnh đạo cần phải khen ngợi đúng người đúng việc.
Ðại hội toàn quốc lần thứ X của Ðảng đã thống nhất quyết tâm tạo chuyển biến rõ rệt về công tác xây dựng Ðảng, để Ðảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Chính vì vậy, trong giai đoạn cách mạng quan trọng này, chúng ta càng phải đi sâu nghiên cứu những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để áp dụng vào quá trình đổi mới và hội nhập, đặc biệt là một số bài học trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của Người sẽ giúp cán bộ đảng viên càng hiểu rõ trách nhiệm của mình, ra sức rèn luyện và phấn đấu để: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
 PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh những thành quả của cách mạng, nhất là những thắng lợi to lớn sau 20 năm đổi mới. Mặt trái của cơ chế thị trường đang tác động không nhỏ đến phẩm chất, đạo đức và lối sống của cán bộ đảng viên. Tham nhũng, hối lộ đã trở thành quốc nạn... Hiện tượng tiêu cực diễn ra ở nhiều nơi, dưới nhiều hình thức rất tinh vi và nguy hiểm. Nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước... là vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong dư luận. Những người cán bộ tha hoá vì vụ lợi sẵn sàng mua những trang thiết bị cũ kỹ của nước ngoài với giá cao, nghĩ trăm phương nghìn kế để bớt xén hàng chục tỷ đồng của Nhà nước và nhân dân. Chúng lợi dụng những kẽ hở của cơ chế kinh tế, những sơ hở của Nhà nước và lòng tin của nhân dân bán rẻ lương tâm, nuôi béo con sâu “cá nhân chủ nghĩa” gây bức xúc trong xã hội. Ngày nay trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, Việt Nam hội nhập và phát triển, vấn đề đạo đức xã hội càng phải được đề cao, trước hết là đạo đức của cán bộ, đảng viên một cách mạnh mẽ, kiên quyết và triệt để hơn.
Đại hội X của Đảng đã khẳng định “Phải ngăn ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta”. Đồng thời phát động cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” về cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô tư tạo nên phong trào tự tu dưỡng rèn luyện, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống và tệ tham nhũng, lãng phí trong toàn xã hội. Đây là chủ trương lớn, mang tính cấp bách trong tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do vậy việc học tập nghiên cứu tiếp thu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ đảng viên hiện nay là nhiệm vụ hàng đầu, đặc biệt quan trọng trong điều kiện Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới.


ự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao trong cách mạng giải phóng dân tộc


MỞ DẦU
         
Hồ Chí Minh - danh nhân văn hoá, anh hùng giải phóng dân tộc, Người là một biểu tượng kiệt xuất và quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đại hội lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam khảng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động” Vì vậy, việc nghiên cứ, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng về quân sự và tư tưởng về đối ngoại của Người có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay của dân tộc
Hồ Chí Minh - người sáng lập ra lực lượng vũ trang, đồng thời là người tổ chức và lãnh đạo nền ngoại giao nền ngoại giao nước nhà khi chế độ dân chủ cộng hoà được thiết lập sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh không chỉ để lại cho thế hệ sau những di sản đối với từng lĩnh vực quân sự và ngoại giao, mà còn để lại cho chúng ta những bài học quý giá về nghệ thuật vận dụng và kết hợp đấu tranh giữa quân sự và ngoại giao trong từng giai đoạn phát triển lịch sử.
          Do sự nhận thức còn hạn chế, chưa sâu rộng và giới hạn thời gian, nên tiểu luận chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu về sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao trong cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng quân sự và tư tưởng về quan hệ quốc tế của Hồ Chí Minh.
                                      NỘI DUNG

Sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự và ngoại giao được thể hiện đầy đủ nhất sau Cách mạng tháng Tám tành công, Hồ Chí Minh trở thành người đứng đầu nhà nước Việt Nam mới và trong suốt quá trình Người lãnh đạo toàn dân ta đấu tranh hoàn thành sứ mệnh giả phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc.Trong suốt quá trình cách mạng nước ta, sự phối hợp giữa đấu tranh ngoại giao và đấu tranh quân sự thể hiện ở chỗ: lúc sử dụng đàm phán dường như là vũ khí duy nhất, nhưng khi tiến hành biện pháp quân sự là chủ yếu thì lại kết hợp song song cả hai hình thức, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể trong mối tương quan lực lượng ta - địch trên mọi phương diện, không chỉ trên chiến trường mà cả trên bình diện quốc tế. Có thể nói, tuy rất chú ý đến mục tiêu dân tộc bằng biện pháp quân sự nhằm tiêu diệt ý chí xâm lược của kẻ địch, nhưng với tầm nhìn xa, trông rộng, Hồ Chí Minh luôn luôn hướng tới giải pháp ngoại giao, khi cơ hội chín muồi để kết thúc chiến tranh, sớm đưa đến hoà bình cho đất nước. Điều đó không chỉ do vấn đề tương quan lực lượng, giảm tổn thất về người và của mà còn vì tương lai của cong cuộc khôi phục đất nước với sự hợp tác cùng có lợi và lâu dài với các nước trên thế giới.
          Chiến tranh nhân dân là một cuộc chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta thường phải chống lại những kẻ mạnh hơn mình. Từ đó nghệ thuật quân sự truyền thống của chúng ta thường vận dụng nguyên lý: Lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều. Bởi vậy biểu hiện của chiển tranh nhân dân của ta là phải toàn dân, toàn diện, lâu dài như Hồ Chí Minh đã khảng định: “Không dùng toàn lực lượng của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào giành thắng lợi được”.
          Tư tưởng quân sự của Người luôn nêu cao ngọn cờ chính nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh của thời đại, tiến công vào kẻ định trên tất cả các mặt trận: quân sư, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá tư tưởng. Trong đó sự kết hợp giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự là một hình thức cơ bản, cốt lõi của chiến tranh nhân dân. Bởi theo Người: “Chiến tranh chỉ là thủ đoạn để đạt được mục đích chính trị”. Sự kết hợp hàì hoà giữa đấu tranh chính trị và ngoại giao trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rất độc đáo trong các giai đoạn của cách mạng nước ta:
          Trong kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược:
          Sau khi Cách mạng tháng Tám vừa thành công, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đứng trước những khó khăn thử thách nghiêm trọng, đặc biệt là sự bao vây, cô lập của các thế lực phản động trong nước và nước ngoài nhằm bóp chết chế độ dân chủ cộng hoà non trẻ vừa thành lập. Đứng trước những khó khăn đó, Hồ Chí Minh đã sử dụng ngoại giao như một thứ vũ khí trực diện chống kẻ thù. Ngày 29-9-1945, Hồ Chí Minh đã soạn thảo  Chính sách ngoại giao của chính phủ lâm thời dân chủ cộng hoà Việt Nam và ngay sau đó, ngày 3-10-1945, Thông cáo về chính sách ngaọi giao của chính phủ lâm thời dân chủ công hoà Việt Nam đã được công bố. Ngày 6-10-1945, Hồ Chí Minh, kiêm Bộ trưởng bộ ngoại giao, đã tổ chức họp báo công bố chính sách ngoại giao của nhà nước ta. Cũng ngay từ khi mới giành được chính quyền, Người đã tiến hành một loạt các hoạt động ngoại giao nhằm giữ vững chết độ non trẻ.
          Khi đối phương chủ trương gây ra chiến tranh muốn cướp nước ta một lần nữa, Người tìm mọi cách ngăn chặn, cố gắng đẩy lùi cuộc chến tranh. Tháng 2-1946, Hồ Chí Minh gặp tướng Xalăng, Người nói rõ: chúng tôi muốn tự do muốn có những quan hệ rộng hơn nữa về văn hoá (với nước Pháp). Nhưng “chúng tôi phải làm chủ trên đất nước chúng tôi”. Người gửi thư cho tống thống Truman yêu cầu nước Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam “…mục đích của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác hoan toàn với Mỹ. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình để cho nền độc lậpvà sự hợp tác đó có lợi cho toàn thế giới”. Nhưng chính quyền Pháp và Mỹ vẫn làm ngơ trước yêu cầu chính đáng  và thiện chí cùa nhân ta.
          Tình hình đất nước ngày càng nguy kịch, Hồ Chí Minh đã mau chóng ùng với Thường vụ Trung ương Đảng ở Hà Nội quyết định chủ trương “hoà để tiến”, dẫn đến việc ký kết Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 giữa Việt Nam và Pháp.
          Tiếp đến là cuộc thương thuyết Việt – Pháp tại Pari, Hồ Chí Minh luôn tỏ rõ thiện chí hoà bình và nguyện vọng bình đẳng thân thiện của nhân dân Việt Nam với nhân dân Pháp. Đồng thời Người cũng kiên trì khẳng định lập trường đòi hỏi về những vấn đề cơ bản là độc lập, thống nhât, và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.
          Trong thời gian ở Pháp, Người đã gặp nhiều chính khách, nhiều nhà cách mạng thuộc cánh “tả” trong chính phủ, các đảng phái, đoàn thể,, nhiều tổ chức, các nhà báo Pháp và quốc tế để nói rõ quan điểm hoà bình, độc lập và thống nhất  của nhân dân Việt Nam; muốn hữu nghị đoàn kết với tất cả các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Dù ở trong hay ngoài hội nghị,Người đều gắn chặt lấy cơ hội hoà bình, chí ít cũng là những hoà hoãn dù nhỏ nhất. Nhưng thực tế cho thấy, nhà cầm quyền Pháp đã có tình cho những cuộc thương thuyết ấy bị đổ vỡ.
          Khả năng chiến tranh bùng nổ trên quy mô toàn quốc ngày càng tăng, Hồ Chí Minh đã ký với chính phủ Pháp bản tạm ước Việt –Pháp 14-9-1946, nhờ đó giành thêm cho ta thời gian tối thiểu để cung cố lực lượng  trước một cuộc chiến tranh đang gần kề. Khi chẩn bị về nước, Người nói với các đồng chí “Dầ có được một hoà ước với chính phủ Pháp, con đưòng để nhân dân ta giành độc lâp, tự do thật sự cũng phải là con đường chiến đấu”.
          Những hoạt động ngaọi giao này đã có hiệu quả thực tế về mặt chính trị và quân sự: làm thát bại âm mưu diệt Cọng, cầm Hồ của quân Tưởng và tay sai, các nước đồng minh phải chứng kiến lễ ký kết hiệp định giữa đại diện của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà với đại diẹn chính phủ Trung Hoa dan quốc và đại diện Cộng hoà Pháp. Trên thực tế, thực dân Pháp đã phải công nhận và đàm phán với chính phủ Hồ Chí Minh. Lá cờ đỏ sao vàng của nước Việt Nam tung bay ở thủ đo nước Pháp. Hồ Chí Minh được đón tiếp với tư cách nguyên thủ quốc gia. Đó chính là sự thất bại về chính trị của kẻ thù, đồng thời là cái được của chúng ta về ngoại giao. Về mặt quân sự, trước hếtquân đội ta tạm tránh khỏi một cuộc chiến tranh hoàn toàn không cân sức, là cách trì hoãn chiến tranh nhằm tranh thủ thời gian hoà bình, để cách mạng có điều kiên củng cố và phát triển lực lượng vũ trang chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài. Với Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, chúng ta đã loại được 20 vạn quân Tưởng và tay sai của chúng về nước để tập trung toàn lực lượng chống lại một kẻ thù ở xa và đã bị suy kiệt sau chiến tranh thế giới thứ hai. Các hoạt động ngoại giao và các cuộc đàm phán trong năm 1946 không những là thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của kẻ địch mà còn làm chuyển biến dư luận Pháp. Những sự kiện đó lại làm sâu sắc thêm các mâu thuẫn vốn có trong nội bộ giới cầm quyền thực dân hiếu chiến.
          Trong thời kỳ này, không chỉ có dấu tranh ngoại giao, Hồ Chí Minh và Đảng ta rất quan tâm chỉ đạo cuộc dấu tranh quân sự ở miền Nam trước sự khiêu khích của kẻ địch. Các hoạt động quan sự đó đã dựng nên bức tường kiềm chế và phá vỡ mưu toan đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp ở miền Nam, buộc kẻ dịch phải tính tới đàm phán với  Chính phủ Hồ Chí Minh. Cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam, vì thế đã hỗ trợ cho các hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh trong các quyết dịnh ký kết Hiệp định sơ bộ (6-3-1946), giữ vững lập trờng của ta trong các hội nghị đàm phán Việt –Pháp ở Đà Lạt và ở Phôngtennơblô cũng như các hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh trên đất Pháp. Dưới ự chỉ đạo tài tình của Người, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các mặt trận ngoại giao và quân sự, thành quả cách mạng được giữ vững, lực lượng vũ trang toàn dân được tăng cường và sằn sàng đi vào cuộc chiến đấu với sức mạnh dân tộc bị dồn nén dể trở thành tinh thần cách mạng quật khởi: Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
          Với tinh thần đó, vượt ua những năm tháng gian khổ, thử thách, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã liên tiếp giành được nhiều thắng lợi quan trọng, đặc biệt là thắng lợi ở chiến dịch biên giới Việt –Trung  (1950), đã khai thông vùng giải phóng của ta nối liền với Trung Quốc, Liên Xô va các nước xã hội chủ nghĩa tạo ra bước ngoặt mới cho cuộc chiến tranh của dân tộc. Từ đây bằng các hoạt động ngoại giao với việc bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước kể cả ở châu âu và châu á, Việt Nam đã mở của ra với thế giới. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn đã có 10 nước cong nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta. Bằng sự ủnghộ về tinh thần và vất chất của nhân dân thế giới, thế và lực của cuộc khángchiến chủa nhân dân ta đã có sự chuyển biến vô cùng nhanh chóng và đã dân tới chiến thắng Điện Biên Phủ. Chến thắng quân sự có tính chát quyết định này đã buộc Pháp và can thiệp Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán ký kết Hiệp định Giơnever chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Với Hiêp định Giơnever, từ đây quốc tế chính thức công nhận sự thống nhấtcủa nước Việt Nam, tạo nên thế chính trị mới cho cuộc đáu tranh ngoại giao sau này. Miền Bắc được hòn toàn giải phóng đi lên chủ nghĩa xã hội, hậu phương rộng lớn và vững chắc được hình thành lại tạo ra thế và lực mới cho cuộc cho cuộc chiến đấu mới trên cả chính trị, quân sự, ngoại giao để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hoà bình, thống nhất nước nhà.
          Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
          Sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, Hồ Chí Minh đã thực hiện một loạt các hoạt động ngoại giao góp phần nhằm nâng cao vị thế của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và tăng cường các tiềm lực vật chất cho công cuộc phục hồi và xây dựng đất nước sau chiến tranh. Các quan hệ quốc tế mới được xác lập: mối quan hệ hợp tác toàn diện và chiến lược với các nước xã hội chủ nghĩa được tăng cường; trục hữu nghị giữa Hà Nội và nhiều nước trong Đông Nam Á được thiết lập và mở rộng; mối quan hệ láng giềng với Vương quốc Lào và vương quốc Camphuchia được xây dựng. Các yếu tố quốc tế thuận lợi chô việc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa thành hậu phương lớn và vững chắc, để hoàn thành mục tiêu cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước, đã sẵn sàng. Cũng vào thời điểm này, ở miền Nam, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã công khai phá hoại Hiệp định Giơ ne vơ, phá hoại hiệp thương Tỏng tuyển cử. Vì vậy cuộc đấu tranh ngoại giao đoig hỏi thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơ ne vơ đã tạo thêm uy tín chính trị cũng như điều kiện để duy trì và củng cố lực lượng cách mạng ở miền Nam, kiềm chế hành động chiến tranh của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, góp phần vào thắng lợi của phong trào Đồng Khởi. Những hoạt động đó đã hình thành nên các yếu tố chính trị và ngoại giao góp phần thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam với Cương lĩnh xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, trung lập tiến tới hoà bình, thống nhất Tổ quốc. Thời kỳ mới của cách mạng miền Nam đã mở ra: từ thế giữ gìn lực lượng  là chủ yếu  chuyển sang thời kỳ vừa đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự, tiến lên kiềm chế và đánh bại cuộc chiến tranh đặc biệt của Mỹ và tay sai ở miền Nam. Trong môt thế giới với các quan điểm khác nhau đối với một cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và vấn đề nhậy cảm là vấn đề hoà bình ở những năm cuối của thập kỷ 50 và đầu những năm 60, dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng, việc chuyển đổi hình thức đấu tranh của cách mạng miền Nam với tiêu chí giành quyền tự quyết của nhân dân miền Nam là thắng lợi chung của sự phối hợp chặt chẽ giữa ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao.
          Từ năm 1965, ngay khi đế quốc Mỹ ồ ạt đổ bộ quân viễn chinh vào miền Nam và liều lĩnh leo thang ném bom miền Bắc, Hồ Chí Minh và Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã hoạch định những kế hoạch quân sự nhằm đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ; đồng thời cũng đã dự trù một kế hoạch từng bước các hoạt động ngoại giao nhằm kiềm chế cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, cũng như kiềm chế các bước leo thang phá hoại miền Bắc của chúng ta; và khi có đủ điều kiện, sẵn sàng mở một lối thoát “danh dự” cho kẻ xâm lược bằng một giải pháp đàm phán hoà bình. Chính vì vậy, ngay từ những năm 1965, ngoại giao Việt Nam đã đưa ra “lập trường bốn điểm” của chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và “lập trường năm điểm” của mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam làm cơ sở,, nguyên tắc cho một cuộc thương lượng giữa Việt Nam và Mỹ mà nội dung chủ yếu là tinh thần cơ bản của Hiệp đinh Giơ ne vơ năm 1954 về Đông Dương. Mặt khắc, Việt Nam sẵn sàng tìm hiểu quan điểm của tất cả các nước và các tổ chức quốc tế cũng như cá nhân về vấn đề giải quyết cuộc chiến tranh bằng các giải pháp hoà bình. Tình hình đó đã kiềm chế thêm nữa các hhành động chiến tranh của nhà cầm  quyền hiếu chiến Mỹ, tạo thêm những cơ hội chuẩn bị cho chiến thắng của các chiến dịch quân sự ở miền Nam. Sau chiến thắng của quan và dân ta trong mùa khô lần thứ nhất, tháng 1 năm 1966, Hồ Chí Minh đã đồng ý mở các cuộc tiếp xúc với các đại diện của Mỹ ở Răng gun (Mianma) nhằm sớm tìm kiếm một giải pháp hoà bình. Một năm sau đó, giữa tháng 1 năm 1967, Hồ Chí Minh và Đảng ta lại thông qua nghị quyết về đấu tranh ngoại giao của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 13, khoá III và tiếp đó, ngày 27 tháng 1 năm 1967, Bộ Ngoại giao đã công bố lập trường của Việt Nam về điều kiện có thể của một cuộc nói chuyện giữa Việt Nam và Mỹ. Tháng 12 năm 1967, trước khi cuộc tỏng tiến công Tết Mậu thân tiếp tục khảng định về điều kiện cho một cuộc nói chuyếnẽ có giã Việt Nam và Mỹ tạo thêm sự bất ngờ đối với Mỹ, góp phần vào thắng lợi của cuộc tổng công kích, là sụp đổ ý chí xâm luợc của giới cầm quyền hiếu chiến Mỹ. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa quân sự và ngoại giao đã mở lối danh dự chính quyền Mỹ xuống thang chiến tranh, tuyên bố hạn chế ném bom miền Bắc(3-1968), chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán hai bên giữa Việt Nam dân chủ cộng hoà và Mỹ (5-1968) và đi vào đàm phán bốn bên ở hội nghị Pari (12-1968).
          Đến tận phút cuối cùng của cuộc đời, trong Di chúc thiêng liêng, Người đã để lại niềm tin tất thắng cho toàn dân tộc: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hi sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là mọt điều chắc chắn”.
          “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài, đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
          Còn non, còn nước, còn người.
          Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay !
          Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất đinh sẽ sum họp một nhà”.
          Thực hiện tư tưởng của Người, vừa đẩy mạnh và đánh các đòn quyết định về quân sự, vừa tiến hành đàm phán ngoại giao là hình thái mới của cách mạng nước ta được mở ra từ cuối năm 1968. Trải qua hơn 4 năm đàm phán ở Hội nghị Pari, lúc công khai, lúc bí mật, song song với các cuộc chiến đấu và các chiến thắng quân sự lớn vào năm 1970 (ở Camphuchia), 1971 (ở biên giới Vệt –Lào), 1972 (ở Quảng Trị) và chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 ở Hà nội đã buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Pari (1-1973) chấm dứt chiến tanh và rút quân hoàn toàn ra khỏi miền Nam; lập lại hoà bình ở Việt Nam. Với Hiệp định Pari, ta đã buộc Mỹ phải công nhận và tôn trọng chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Theo Hiệp định, quân đội Mỹ phải cuốn gói ra đi, để lại một khoảng thời gian lịch sử dẫn đến ngày “cáo chung” của chế độ tay sai Mỹ ở Sài Gòn. Điều đó kgảg định bước đi chiến lược đúng đắn cách mạng nước ta mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra : đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào.
          Trong hai cuộc kháng chiến, nhân dân ta phải chống lại hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Từ khinh nghiẹm truyền thống của dân tộc “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch niều”, Người đã khéo lợi dụng mâu thuẫn phân hoá kẻ thù, nhằm ào kẻ thù chính. Người chủ trương  “vừa đánh, vừa đàm”, “đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ”, “lấy thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi cho chính trị”, “thắng lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn”. Kết quả của Hội nghị Giơ-ne-vơ và Hội nghị Pari về Việt Nam là những minh chứng về sự phối hợp giữa đấu tranh ngoại giao với đấu trnh quân sự trong thời dại Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh luôn kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sự kết hợp này đã nhân lên sức mạnh của dân tộc ta, tăng cường thực lực kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Người, thắng lợi trên chiến trường là cơ sở cho thắng lợi ở bà đàm phán và hoạt động ngoại giao phát huy thắng lợi quân sự trong đàm phán tạo ra thế và lực mới cho toàn bộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta
          Kết hợp giữa quân sự và ngoại giao trong đường lối, trong chỉ đạo thực hiện là những bài học kinh nghiệm quý giá mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta. Những kinh nghiệm đó cần được tiếp tục nghiên cứu và áp dụng sáng tạo  trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
 KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của Đảng và dân tộc ta, Người đã giành toàn bộ cuộc đời mình để cống hiến cho sự ngiệp cách mạng của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân và độc lập cho dân tộc. Người đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô cùng quý giá đó là hệ thống những quan điểm sâu sắc và toàn diện về con đường cách mạng Việt Nam. Trong đó tư tưởng về kết hợp giữa đấu tranh quân sự và  đấu tranh ngoại giao đã được Người thực hiện một cách sáng tạo trong suốt quá trình Người lãnh đạo cuộc kháng chiến của dân tộc. Tư tưởng về quân sự và đối ngoại của Hồ Chí Minh là sự kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước, ngoại giao của dân tộc, kết hợp và tiếp thu những tinh hoa quân sự, ngoại giao của thế giới, lấy nhân dân và lợi ích tối cao của dân tộc làm nguồn sức mạnh  để giải phóng dân tộc bằng khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng và đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.
          Tư tưởng về sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động và đấu tranh cách mạng  của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam đã trở thành cơ sở của đường lói quân sự của Đảng, đưa cách mạng tháng Tám đến thành công và hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đến thắng lợi.
          Ngày nay trong trong xây dựng đất nước phải ngắn liền với bảo vệ tổ quốc, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Muốn làm cho dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phải ra sức phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất , nâng cao đời sống văn hoá, giáo dục lối sống lành mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ vững an ninh, củng cố quốc phòng, phát triển nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam; không ngừng mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hai bên cùng có lợi.

          Tư tưởng về kết hợp giữa quân sự và ngoại giao của Hồ Chí Minhdường như là một kho tàng quý báu để chúng ta không ngừng nghiên cứu bổ sung để rút ra được những bài học thực tiễn trong xây dưng và bảo vệ tổ quốc và sẵn sàng chiến đấu chống lại bất kỳ kẻ thù xâm lược nào.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là nhà macxít sáng tạo lớn nhất của cách mạng Việt Nam ở thế kỷ XX. Cuộc đới, sự nghiệp, tư tưởng và nhân cách của Người là một mẫu mực hiếm có, đã để lại tấm gương sáng cho nhiều thế hệ cách mạng nước ta, đồng thời đã có tác dụng và ảnh hưởng to lớn không chỉ đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam mà còn đối với cách mạng thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất hữu cơ và kết hợp nhuần nhuyễn với phương pháp và phong cách của Người, với đạo đức, lối sống và nhân cách Hồ Chí Minh. Người để lại những giấu ấn đặc biệt sôi động trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là cách mạng giải phóng dân tộc, cống hiến của Người đã đi vào lịch sử, được thế giới thừa nhận và tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất. Thời gian càng lùi xa, tầm vóc, giá trị, sức sống và ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh càng nổi bật và toả sáng.
Nói tới tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống lớn, một chỉnh thể tư tưởng lý luận- phương pháp và phong cách, cần đặc biệt nhấn mạnh tới tư tưởng của Người về con đường cách mạng Việt Nam. Đây là một tư tưởng nổi bật và bao trùm, là tư tưởng chủ đạo, là sự chỉ đạo xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Vịêt Nam chẳng những nhận thấy được sự trung thành của Người đối với chủ nghĩa Mác- Lênin, mà còn thấy Người đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử nước ta. Hơn nữa, với tư cách là một nhà tư tưởng, Hồ Chí Minh đã có những phát triển độc đáo và đặc sắc chủ nghĩa Mác- Lênin, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam đang soi sáng và chỉ dẫn cho chúng ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, đang cổ vũ nhân dân lao động các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.
          Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội là tổng hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Do thời gian và năng lực nhận thức còn hạn chế, nên tiểu luận chỉ tập trung vào nghiên cứu, tìm hiểu một số những sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

PHẦN II: NỘI DUNG
          Năm 1858 thực dân Pháp mổ súng xâm lược nước ta, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã từng bước nhân nhượng, đầu hàng và cuối cùng bán nước ta cho thực dân Pháp, nhưng với lòng yêu nước nồng nàn không cam chịu thân phận nô lệ nhân dân ta đã anh dũng đứng lên đấu tranh chống lại sự xâm lược đó. Tiêu biểu đó là các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng phong kiến (cuối thế kỷ XIX), phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản (đầu thế kỷ XX). Nhưng cuối cùng các phong trào này đều bị thất bại. Sự thất bại của các phong này trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là do thiếu đường lối đúng đắn, khoa học và đã tạo nên một cuộc khủng hoàng sâu sắc về đường lối cứu nước trong những năm đầu thế kỷ XX.
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đó, ngày 5.6.1911 Người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứ nước, cứu nhân dân khỏi sự áp bức bóc lột của bọn thực dân, phong kiến. Trải qua một quá trình dài lao động, học tập, hoạt động bôn ba khắp các nước nước trên thế giới. Trong thời gian này Người đã có điều kiện tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới Như cách mạng tư sản Mỹ, Anh, Pháp … và nhận thấy rằng đó là ngững cuộc cách mạng không triệt để vì nhân dân vẫn muốn làm cách mạng lần nữa. Năm 1917 cách mạng tháng 10 Nga thành công và ảnh hưởng lớn đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, Người đã tìm hiểu về cuộc cách mạng này và nhận thấy rằng đây là cuộc cách mạng triệt để, cách mạng Việt Nam có thể đi theo con đường của cuộc cách mạng này. Tháng 7.1920 Nguyễn Tất Thành đã tiếp xúc với Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa và đã tìm ra con đưòng cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam đó là đi theo con đường cách mạng vô sản.( độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội).
          Nội dung của con đường cách mạng này là đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam tiến hành đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai giành độc lập dân tộc và sâu đó đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, Nên Hồ Chí Minh hiểu rất rõ tình hình, điều kiện ở các nước thuộc địa. Vì vậy khi vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã có sự vận dụng, bổ xung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin cho phù hợp với điều kiện nước ta, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam.

Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc được cơ bản hình thành từ các bài viết của Người đăng trên báo chí ở Pari, được sửa chữa, nâng cao và bổ sung thêm một số bài viết trong thời gian đầu Người vừa mới đến Mátxcơva. Trong Bản án chế độ thựuc dân Pháp những nét lớn về con đường đấu trang giành độc lập dân tộc đã cơ bản hình thành, con đường tiến lên sau đó đã hé mở, xong chưa có điều kiện đề cập một cách đầy đủ và rõ ràng.
          Cuối tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Mát xcơva. Tại đây, Người đã tham dự Hội nghị lần thứ nhất của Quốc tế Nông dân và được bầu vào đoàn chủ tịch của tổ chức này. Tiếp theo, Người tham dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản và đại hội của nhiều tổ chức quốc tế khác, sau đó được cử vào Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Trong gần một năm rưỡi sống và làm việc ở trung tâm đầu lão của phong trào cộng sản Quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã có những đóng góp xuất sắc, trên cả hai mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn vào hoạt động của Quốc tế Cộng sản, được thừa nhận là một trong những chuyên gia hàng đầu về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Chính trong thời gian này, Người có điều kiện để suy nghĩ, bàn bạc, tranh luận về những vấn đề lý luận, từ đó ngày càng hình thành rõ hơn tư tưởng của mình về con đường cách mạng Việt Nam.
          Những nét đặc sắc thể hiện cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng lý luận Mác- Lênin để đề ra con đường cho cách mạng Việt Nam có thể tóm tắt trong mấy nội dung chính sau đây:
          Sáng tạo thứ nhất: Vào năm 1924, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản bản Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đây là một tác phẩm xuất sắc của Người bàn về đặc điểm và phương pháp của cách mạng Việt Nam, thể hiện sự vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam. Đứng vững trên quan điểm thực tiễn, hòn đá tảng của triết học Mác, Nguyễn Ái Quốc phân tích những đặc điểm về mặt cấu trúc kinh tế, xã hội, văn hoá, lịch sử… của Việt Nam, một xã hội tuy đã có phân hoá về giai cấp, nhưng chưa sâu sắc và triệt để, từ đó đưa ra một số luận điểm:
          - Ở Việt Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp không giống như ở phương Tây”, “sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không thể chối cãi được”.
          - Trong một xã hội thuộc địa mất nước thì mâu thuẫn dân tộc với đế quốc vẫn là mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu; mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc do đó được giảm thiểu, vì theo Nguyễn Ái Quốc, dù là địa chủ hay tư sản thì họ cũng đều là những người dân mất nước, bị chèn ép, nên họ có tinh thần dân tộc. Vì vậy mới có phong trào chống thuế năm 1908, phong trào thanh niên bãi khoá, phong trào Đông Du và việc vua Duy Tân mưu toàn khởi nghĩa. Từ sự phân tích đó Nguyễn Ái Quốc đưa ra luận điểm: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Hơn nữa, trong cuộc đấu tranh giành độc lập, “Người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sống của họ”.
          Tất nhiên chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc dùng ở đây, nói như Mác: không phải như giai cấp tư sản đã hiểu, mà là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của người dân bản xứ. Thừa nhận đấu tranh giai cấp là một động lực lớn trong xã hội có giai cấp, nhưng Người không cho đó là động lực duy nhất. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, mất nước, nhiệm vụ cứu nước giành độc lập dân tộc đang đặt lên hàng đầu thì ”chủ nghĩa dân tộc vẫn là một động lực lớn của đất nước”.
          Là một động lực lớn của đất nước bởi vì chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Hơn nữa, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sự phân hoá giai cấp đã bắt đầu nhưng chưa triệt để và sâu sắc, xung đột giai cấp chưa gay gắt và mạnh mẽ, cả dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do, thì chủ nghĩa dân tộc vẫn là một động lực vĩ đại và duy nhất.
          - Xuất phát từ nhận thức: chủ nghĩa dân tộc của người bản xứ là chủ nghĩa dân tộc chân chính, như ăngghen đã từng nói: “những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”, Nguyễn Ái Quốc đi tới một kiến nghị có tính cương lĩnh hành động với Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản”, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi…nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”. Đề nghị này, mới nghe qua, có vẻ như một nghịch lý, nhất là vào thời điểm những năm 20, khi trong Quốc tế Cộng sản đang có xu hướng bị “sơ cứng hoá” về mặt lý luận. Nhưng thực ra nó lại rất hợp lý, theo như Nguyễn Ái Quốc thì đó là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”, bởi đã nhân danh Quốc tế Cộng sản mà phát động, tức không phải chủ nghĩa dân tộc thuần tuý nữa mà sẽ là chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế. Điều này càng rõ, khi kết thúc bản Báo cáo Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó thì đó cũng là thắng lợi cho người An Nam”.
          Xét về thực chất, đề nghị đó cũng là một cách biến cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa thành một trong những cái cánh của cách mạng vô sản, nghĩa là hướng nó đi theo con đường của cách mạng vô sản, để từ độc lập dân tộc sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội.
          Qua nội dung trên có thể thấy rõ: khi xác định con đường cách mạng Việt Nam phải đi theo là con đường cách mạng vô sản, ngay từ đầu những năm 20, Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng và giải quyết sáng tạo mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong cách mạng dân tộc dân chủ. Đây là một bảo đảm đầu tiên cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam, và cũng là sáng tạo đầu tiên trong tư duy lý luận Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam
          Sáng tạo thứ hai: Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Matxcơva tới Quảng Châu (Trung Quốc), thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh Niên, mơ các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động, gây dựng và phát động phong trào. Những bài giảng của Người tại lớp huấn luyện chính trị được tập hợp lại và in thành tác phẩm Đường cách mệnh (1927).
          Tác phẩm này đã nêu lên hai thứ cách mệnh: dân tộc cách mệnh thế giới cách mệnh, nhưng chưa nói rõ cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn, hai quá trình cách mạng; nhưng trong Điều lệ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và lãnh đạo, thì mục đích, tôn chỉ của Hội khi mới thành lập đã ghi rõ: “Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và dành lại độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mệnh thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)”. Đã là hai giai đoạn, hai quá trình cách mạng, tất nhiên có cái phải làm trước, có cái làm sau, nhưng không hoàn toàn tách rời nhau, giai đoạn trước chuẩn bị tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau là kết quả, là sự củng cố, sự phát triển và hoàn thiện những mục tiêu của giai đoạn trước. Tác phẩm đã tập trung làm rõ nội dung, nhiệm vụ của giai đoạn đầu là đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến tay sai giành độc lập cho dân tộc.
          Tác phẩm Đường cách mệnh thực sự là một tác phẩm lý luận lớn, lần đầu tiên vạch rõ cách mạng Việt Nam phải trải qua hai gia đoạn, hai quá trình cách mạng: trước hết là dân tộc cách mạng sau là thế giới cách mạng, tức là trước hết phải dành lại độc lập dân tộc, sau mới có địa bàn tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy, con đường cách mạng vô sản diễn ra ở một nước thuộc địa như Đông Dương và Việt Nam có khác với các nước tư bản phát triển ở Châu Âu.
          Mục tiêu của cách mạng vô sản ở “chính quốc” là đập tan nhà nước của giai cấp tư sản, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, từ giải phóng giai cấp công nhân đến giải phóng các dân tộc bị áp bức rồi cuối cùng đi tới giải phóng nhân loại. Tiếp thu lý luận Mác- Lê nin, Hồ Chí Minh cũng đã từng viết: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Trong quá trình kết hợp lý luận và thựuc tiễn, xuất phát từ yêu cầu cấp bách của cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh đã thay đổi lập luận của mình: có giải phóng được dân tộc mới giải phóng được giai cấp, coi giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và là tiền đề để tiến tới giải phóng giai cấp hoàn toàn. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) của Đảng Cộng sản Đông Dương, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh đã phân tích rõ: “… Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Do đó, các đảng cộng sản ở thuộc địa phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc trước hết phải lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành lại độc lập dân tộc để mở đường tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Không phải đảng cộng sản nào cũng nhận thức được sáng tỏ vấn đề này, cũng giương cao ngọn cờ dân tộc và giữ được độc quyền lãnh đạo trong cách mạng dân tộc dân chủ như Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là sáng tạo đặc sắc thứ hai của Hồ Chí Minh.
          Sáng tạo thứ ba : Tháng 2- 1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kiện này cùng với các tác phẩm được Người hoàn thành và xuất bản trước đó, đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản.
          Về bước đi của cách mạng Việt Nam, Chánh cương vắn tắt chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy tiến trình này vẫn là hai chứ không phải là ba giai đoạn, vẫn nhất quán như đã nêu trong Đường cách mệnh, bởi vì cách mạng thổ địa cũng chỉ là một trong hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng tư sản cách mạng dân quyền , chứ không tách ra thành một giai đoạn riêng, như có người quan niệm.
          Khái niệm “cách mạng tư sản dân quyền” mà Nguyễn Ái Quốc dùng ở đây là dựa theo văn kiện của Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1928). Cần nói ngay rằng khái niệm này không thể đầy đủ và chính xác nội dung, nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, vì nó không nói lên được nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, vốn là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu ở các nước này. Vì vậy, Chánh cương đã nói rõ: Về phương diện chính trị là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Về phương diện kinh tế là thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Cách mạng dân tộc dân chủ ở các nước thuộc địa và phụ thuộc có hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Theo Nghị quyết của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, hai nhiệm vụ này phải được thực hiện đồng thời, khăng khít với nhau, nương tựa vào nhau thì mới giành được thắng lợi.
          Phân tích mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến trong cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc, năm 1927, Xtalin đã viết: “không thể thủ tiêu được những tàn tích phong kiến ở Trung Quốc nếu không đồng thời tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc ở Trung Quốc”. Như vậy, ý kiến của Xtalin chỉ rõ: cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc có hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến và hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khít với nhau cần phải tiến hành đồng thời mới giành được thắng lợi.
          Chánh cương, sách lược vắn tắt, …do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo cũng khẳng định: chủ nghĩa đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến là hai đối tượng cần đánh đổ trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng xuất phát từ thựuc tiễn một nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc không coi hai nhiệm vụ đó nhất loạt phải thực hiện ngang nhau, mà đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, còn nhiệm vụ chống phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày thì sẽ thực hiện từng bước. Do đó, trong Chánh cương, về vấn đề ruộng đất, mới chỉ chủ trương “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chí cho dân cày nghèo”, mà chưa nêu khẩu hiệu “người cày có ruộng”.
          Đó là sáng tạo đặc sắc thứ ba của Nguyễn Ái Quốc trong việc xác định đường lối chiến lược, sách lược cuả cách mạng nước ta, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, thể hiện một tầm nhìn sáng suốt, đúng đắn. Điều này sớm được Người nêu lên từ trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, do đó mới có sách lược tranh thủ lôi kéo phú nông, trung và tiểu địa chủ và các cá nhân yêu nước, dân chủ khác, đi với cách mạng, nhằm chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính là đế quốc và bọn phong kiến phản động tay sai.
          Sáng tạo thứ tư: cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
          Trong phong trào cộng sản quốc tế đẵ từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế Cộng sản cho rằng: “chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng ở các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tiên tiến.
          Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối lien hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc. Năm 1925, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nừu người ta chỉ cắt một cái vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tực hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị đứt lại sẽ mọc ra”.
          Trong khi đặt cách mạng thuộc địa trong mối liên hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở chính quốc, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến tính chủ động và khả năng giành thắng lợi trước của cuộc cách mạng ở thuộc địa, trở thành sự cổ vũ, ủng hộ to lớn đối với cách mạng chính quốc. Theo Người, tuy liên hệ mật thiết với cách mạng chính quốc. Theo Người, tuy liên hệ mật thiết với cách mạng chính quốc, nhưng cách mạng thuộc địa không bị động, không phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, mà phải nêu cao tính độc lập, tự chủ, không được ỷ lại, trông chờ, phải tự mình giải phóng cho mình.Người nêu rõ rằng, nhân dân thuộc địa bị áp bức, nên chống lại ách thống trị thực dân để giải phóng. Vì thế, phải làm cho họ nhận diện đúng kẻ thù, tránh sự lừa bịp của chúng. Bằng nhiều hình thức và biện pháp phong phú, ngay từ đầu những năm 1920, Người đã vạch trần tội ác cũng như những lời tuyên bố giả hiệu tự do, dân chủ của bọn đế quốc, giúp cho nhân dân thuộc địa và chính quốc thấy rõ bộ mặt thật của bọn thực dân. Hiểu rõ tội ác của chủ nghĩa thực dân là để nhân thức đúng vị trí của thuộc địa và cách mạng thuộc địa đối với cách mạng chính quốc. Trước và cùng với Hồ Chí Minh có nhiều người nói đến sự phụ thuộc của cách mạng thuộc địa vào cách mạng chính quốc. Song, chưa ai nói rõ như Người về vận mệnh của chủ nghĩa đế quốc, thực dân trong bối cảnh và điều kiện lịch sử mới được quyết định phần lớn ở thuộc địa, và bằng sự nỗ lực của bản thân, cách mạng thuộc địa hoàn toàn có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Với tầm nhìn chiến lược, Người cho rằng, thuộc địa là khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc, nơi tập trung các mâu thuẫn của thời đại. Vì thế, cách mạng vô sản không phải bắt đầu ở chính quốc, mà phải bắt đầu từ các nước thuộc địa, cách mạng chính quốc mới thành công dễ dàng. Từ sự phân tích “vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới tuỳ thuộc phần lớn vào các thuộc địa”, “ tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đế quốc đều lấy ở các xứ thuộc địa”. Hồ Chí Minh xác định chiến lược đánh bại chủ nghĩa đế quốc là “trước hết phải tước hết thuộc địa của chúng đi”. Xác định vị trí quan trọng của thuộc địa, Người muốn giải thích vì sao bọn đế quốc, thực dân ra sức tranh giành nhau xâm chiếm thuộc địa, và còn chứng minh rằng, chúng thống trị thuộc địa không phải chỉ để áp bức, bóc lột nhân dân thuộc địa, mà còn gây ra chiến tranh chống vô sản chính quốc và chống lại phong trào cách mạng thế giới.
          Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm vụ của cách mạng vô sảnvà cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách mạng tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ: An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản pháp yếu thì giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp làm cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”.
          Thêm một bước nữa, do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc trong khi tiềm năng cách mạng của nó là rất to lớn, Nguyễn ái Quốc đi tới luận điểm: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể và cần phải tiến hành trước và thắng lợi của nó sẽ “giúp cho những người anh em của họ ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
          Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn của Hồ Chí Minh; một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng ân tộc trên toàn thế giới trong gần một nửa thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
         PHẦN III: KẾT LUẬN
          Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Về tư tưởng này Hồ Chí Minh đã nêu ra nhiều luận điểm sáng tạo có ý nghĩa chỉ đạo to lớn đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm sáng tạo về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc; luận điểm về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là sự đóng góp to lớn của Người vào việc phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên cơ sở những luận điểm đó, Hồ Chí Minh đã xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn và cùng với Đảng cộng sản Việt Nam tin tưởng quyết tâm lãnh đạo cách mạng Việt Nam đánh giặc cứu nước giành độc lập tự do  cho nhân dân Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo, bào trùm trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã đấu tranh không mệt mỏi vì lý tưởng cao quý đó. Người đã dâng hiến chọn cuộc đời mình cho nền độc lập của tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh phúc của đồng bào và nhân dân các dân tộc bị đọa đầy, đau khổ. Người đã được thế giới tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới. Người đã khởi xướng lên ngọn cờ chống thực dân. Lý luận, tư tưởng của Người về cách mạng giải phóng dân tộc có ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn trong phong trào đấu tranh cách mạng của các dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX.
          Là một nhà macxít kiên định với bản lĩnh sáng tạo, Người đã giải quyết thành công mối quan hệ dân tộc và giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân và cách mạng vô sản, đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, đưa dân tộc ta từ nô lệ tới tự do. Tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như toàn bộ tư tưởng, phương pháp, phong cách, đạo đức và nhân cách của Người là di sản quý báu đối với dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh đang là kim chỉ nam hành động cho Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
          Vận dụng tư tưởng này của Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới hiện nay chúng ta cần phải làm cho tư tưởng đó sống động, biến thành tình cảm, ý thức, hành động của mỗi người trong công tác thực tế hàng ngày, thành kết quả và hiện thực sinh động phục vụ  nhân dân ngày một tốt hơn- điều mà lúc sinh thời Người coi là hoài bão là ham muốn của mình.
          Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh được đảng ta xác định là then chốt, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trong tâm, đảm bảo công bằng xã hội để nhân dân được hưởng những lợi ích chính đáng của mình, tạo được niềm tin vào sự đồng thuận xã hội trong phát triển. Thực hành dân chủ rộng rãi, thiết lập quy chế dân chủ ở cơ sở, đảm bảo sự vững mạnh và hiệu quả của hệ thống chính trị từ cơ sở để tạo ra động lực phát triển của xã hội trong giai đoạn phát triển mới của cách mạng nước ta.
          Một trong những bài học lớn nhất mà đảng ta đã tổng kết trong đổi mới là lấy dân làm gốc, thực sự trọng dân, gần dân, tin dân, tận tụy phục vụ dân chúng. Đó cũng chính là tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân, sức mạnh của dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
          Có dân thì có tất cả. Mất dân thì mất tất cả. Mọi thăng trầm lịch sủ xưa nay đều là thế. Làm cho đảng phát huy được uy tín và ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, làm cho mọi người dân đều cảm nhận sâu sắc từ thực tế, đảng là đảng của mình nhà nước là nhà nước của mình chế độ này là chế độ của mình, phải ra sức xây dựng, củng cố, bảo vệ và để đạt tới độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là cách tốt nhất để đưa sự nghiệp đổi mới, đưa sự nghiệp xâydựng chủ nghĩa xã hội tới thành công, làm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cô đúc trong chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do ” mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra trở thành sức mạnh, thành giá trị và hành động thựuc tế của toàn Đảng, toàn dân, để thực hiện được hoài bão của Người: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh bằng chính lực đẩy trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới.