MỤC LỤC
Contents
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Tình hình ngành công nghiệp Việt Nam
1.1. Tình hình
ngành công nghiệp Việt Nam
1.2. Các chủng loại
ngành công nghiệp Việt Nam
II. Phân tích hiện trạng ngành công nghiệp Việt Nam
2.1. Ưu thế ngành
công nghiệp Việt Nam
2.2.Lĩnh vực công
nghiệp đang đợi khai phá, điều chỉnh đầu tư
III. Chính sách đầu tư của Việt Nam
3.1. Loại hình công
nghiệp được nhà nước bảo hộ
3.2. Lĩnh vực được
khuyến khích
IV. Thương mại
quốc tế
4.1. So sánh Công
nghiệp Việt, Trung
4.2. Lời khuyên cho
đầu tư nước ngoài
Hơn
20 năm đổi mới và phát triển, nền kinh tế - xã hội Việt Nam đã có những đổi
thay sâu sắc. Từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với cơ cấu ngành
tính theo GDP năm 1985: nông, lâm nghiệp thủy sản 40,2%, công nghiệp, xây dựng
27,4%... Việt Nam đã hội nhập, đổi mới và phát triển theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, các ngành nghề, các thành phần kinh tế đa dạng hơn. Cơ cấu
ngành theo GDP năm 2011: nông, lâm nghiệp, thủy sản 24,02%, công nghiệp, xây
dựng 40,29%...Nhìn chung cơ cấu các ngành đã chuyển dịch theo hướng phát triển
nhiều ngành nghề đảm bảo tăng tưởng, phát huy lợi thế so sánh, gắn với nhu cầu
thị trường. Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020 thì
nước ta phải có những chính sách phát triển công nghiệp hợp lý, phù hợp với thị
trường hiện nay. Vì vậy, việc tìm hiểu về “Sự phát triển của công nghiệp Việt
Nam và phân tích thị trường đầu tư” cũng như tìm hiểu về các giải pháp chính
sách công nghiệp hiên nay là điều chúng ta cần quan tâm, nghiên cứu.
NỘI DUNG
I. Tình hình ngành công nghiệp
Việt Nam
1.1. Tình hình ngành công nghiệp Việt Nam
Nhìn
lại thời ký đổi mới, hội nhập có thể thấy song song với việc tăng trưởng và ổn
định, nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ. Xu hướng chuyển
dịch là tăng nhanh về công nghiệp, dịch vụ, nền kinh tế ngày càng được hiện đại
hóa. Nếu năm 1985, tính theo GDP cơ cấu ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản là 40,2% công nghiệp, xây dựng là 27,4% thì đến
năm 2011 tỷ lệ cơ cấu tương ứng là 22,02% và 40,79%. Sản xuất công nghiệp trước
Cách mạng còn rất sơ khai. Cả nước chỉ có 200 xí nghiệp, với 90 nghìn công
nhân, chủ yếu phục vụ sự vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt của thực
dân. Số sản phẩm chỉ đếm trên đầu ngón tay với sản lượng còn rất ít ỏi. Đến nay
quy mô công nghiệp đã mở rộng hơn nhiều, các sản phẩm công nghiệp cũng đa dạng
hơn về mẫu mã và chủng loại. Theo thống
kê, cả nước có gần nửa triệu doanh nghiệp, trên 4,2 triệu cơ sở cá thể, với gần
1,5 triệu lao động… Có thể thấy, sản xuất công nghiệp là một trong những yếu tố
quan trọng để đưa nước ta đi tới nền kinh tế phát triển.
Chỉ
số sản xuất ngành công nghiệp tháng 12 năm 2012 ước tính tăng 5,9% so với cùng
kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2012 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 4,8% sao
với năm 2011, trong đó công nghiệp khai khoáng tăng 3,5%, đóng góp 0,7 điểm phần trăm vào mức tăng chung của
toàn ngành; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5%, đóng góp 3,2 điểm phần
trăm; sản xuất, phân phối điện, khí đốt tăng 12,3%, đóng góp 0,8 điểm phần
trăm; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 8,4%, đóng góp
0,1 điểm phần trăm. Sản xuất công nghiệp năm nay gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế toàn cầu chưa được hồi phục; sức mua trong nước và nhu cầu xuất
khẩu giảm nên mức tăng thấp so với một số năm trở lại đây. Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp
những tháng cuối năm đang bắt đầu có chuyển biến tích cực, theo đó chỉ số sản
xuất công nghiệp có xu hướng tăng dần, chỉ số tồn kho giảm dần.
Một số ngành công
nghiệp có mức sản xuất tăng cao so với năm 2011 là: Đóng tàu và cấu kiện nổi
tăng 136,7%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 48,3%; sản xuất phụ tùng và bộ
phận phụ trợ tăng 39,6%; sản xuất linh kiện điện tử tăng 23,7%; sản xuất pin và
ắc quy tăng 18%; sản xuất đường tăng 17,7%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược
liệu tăng 14,9%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 12,3%; chế biến
sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 10,1%; khai thác khí đốt tự nhiên tăng 9,9%;
khai thác dầu thô tăng 9,8%; sản xuất phân bón và hợp chất nitơ tăng 9,7%; sản
xuất bia tăng 9,7%. Một số ngành có mức tăng khá như: Sản xuất mỹ phẩm, xà
phòng và chất tẩy rửa tăng 9,4%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 8,8%;
sản xuất sợi tăng 8,1%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm tăng 7,9%; chế biến
và bảo quản thuỷ sản tăng 7,9%; sản xuất các sản phẩm từ plastic tăng 5,2%.
Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm so với năm
2011 là: May trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 2,3%; sản xuất
sắt, thép, gang tăng 2,2%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 1,3%; sản xuất
thiết bị điện tăng 0,3%; sản xuất vải dệt thoi giảm 0,8%; sản xuất giày, dép
giảm 0,9%; sản xuất dây cáp, dây điện giảm 2,1%; sản xuất sơn, vec ni giảm
3,6%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) giảm 3,9%; sản xuất xi măng giảm
6%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 8,1%; khai thác và thu gom than
cứng giảm 9,4%; sản xuất xe có động cơ giảm 10%; sản xuất mô tô, xe máy giảm
14,6%; khai thác đá, cát, sỏi giảm 19,3%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2012 của
một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy mô công nghiệp lớn như sau:
Thành phố Hồ Chí Minh tăng 4,9%; Đồng Nai tăng 7,2%; Bình Dương tăng 7,5%; Hà Nội
tăng 5%; Hải Phòng tăng 3,9%; Bắc
Ninh tăng 19,1%; Đà Nẵng tăng 6%;
Cần Thơ tăng 4,6%; Hải Dương giảm 1%;
Vĩnh Phúc giảm 3%.
Chỉ số tiêu thụ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo mười một tháng năm 2012 so với cùng kỳ năm trước tăng 3,6%. Các ngành có chỉ
số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất đường tăng 112,5%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 34,2%; sản xuất
thiết bị truyền thông tăng 29,2%; chế biến và bảo quản thủy sản tăng 23,1%; sản xuất thức
ăn gia súc, gia cầm tăng 21,7%; sản xuất cấu kiện kim loại tăng 10,7%; may trang phục tăng 7,8%; sản xuất mì
ống, mì sợi tăng 6,5%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ mười
một tháng tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 4,5%; sản xuất sợi
tăng 3,8%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 0,9%; sản xuất sắt, thép giảm 1,9%; sản xuất giày, dép giảm 2,2%; sản xuất bia
giảm 6,6%; sản xuất linh kiện điện tử giảm 9,2%; sản xuất sản phẩm từ plastic giảm
11,3%; sản xuất vải
dệt thoi giảm 16,1%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 16,7%; sản xuất xi măng giảm 17,1%; sản xuất xe
có động cơ giảm 18%; chế biến sữa và sản phẩm từ sữa giảm 18,9%; sản xuất thiết bị điện giảm 20,6%; sản xuất dây,
cáp điện giảm 38,3%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/12/2012
của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 20,1% so với cùng thời điểm năm
trước, trong đó những ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất xe có động
cơ tăng 76,6%; sản xuất dây, cáp điện tăng 56,8%; sản xuất bia tăng 44,5%; sản
xuất thuốc lá tăng 42,2%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 42,1%; may trang phục
tăng 41,5%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 40,8%; sản xuất xi măng
tăng 30,6%; chế biến và bảo quản thuỷ sản tăng 28,6%; sản xuất mỹ phẩm, xà
phòng và chất tẩy rửa tăng 24,7%; sản xuất pin, ắc quy tăng 17,1%. Một số ngành
có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa
tăng 9,2%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 7,1%; sản xuất giày, dép
tăng 6,6%; sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét tăng 3,6%; sản xuất sợi tăng
1,4%; sản xuất vải dệt thoi tăng 1%; sản xuất các cấu kiện kim loại giảm 5,4%; sản
xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 7,5%; sản xuất thiết bị dẫn điện
giảm 9,7%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 20,2%; sản xuất đường giảm
24%.
Tỷ lệ giá trị hàng tồn kho tại thời điểm
01/12/2012 so với giá trị sản xuất ước tính cả năm 2012 của ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo là 6,9%, trong đó một số ngành có tỷ lệ giá trị hàng tồn kho
cao như: Chế biến và bảo quản thuỷ sản 12,3%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược
liệu 10,6%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ 9,5%; sản xuất xe có động cơ
9,1%.
Lao động khu vực doanh nghiệp công nghiệp
tháng 12 tăng 0,2% so với tháng trước, trong đó biến động lao động ngành công
nghiệp của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Đồng
Nai tăng 0,6%; Bình Dương tăng 0,4%;
Hà Nội giảm 0,2%; Hải Phòng giảm 0,2%; Bắc Ninh giảm 4,7%; Vĩnh
Phúc tăng 0,9%; Cần Thơ tăng 0,7%. Riêng thành phố Hồ Chí Minh, Hải Dương, Đà Nẵng ở mức tháng 11/2012.
Có thể nói rằng, dù kinh tế Việt Nam vẫn chưa hoàn
toàn phục hồi sau khủng hoảng, song nền công nghiệp nước ta vẫn tương đối ổn
định, đây là một dấu hiệu đáng mừng.
1.2. Các chủng loại ngành công
nghiệp Việt Nam
Công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh
vực sản xuất vật chất, một bộ phận cấu thành nền sản xuất vật chất của xã hội.
Ở Việt Nam, ngành công nghiệp được chia là công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng
1.2.1.
Công nghiệp
nhẹ
Công nghiệp nhẹ là ngành công nghiệp ít tập trung tư bản
hơn công nghiệp nặng, và thiên về cung cấp hàng
hóa tiêu dùng hơn là phục vụ các doanh nghiệp (có nghĩa là sản phẩm được
sản xuất cho người tiêu dùng cuối cùng hơn là sản xuất để làm đầu vào cho một
quá trình sản xuất khác). Các cơ sở công nghiệp nhẹ thường ít gây tác động môi
trường hơn công nghiệp nặng và vì thế chúng có thể được bố trí gần khu dân cư.
Ngành công nghiệp nhẹ lại rất cần nhiều người lao động làm việc trong một không
gian rông lớn
Các loại hình
công nghiệp nhẹ:
·
Công nghiệp
giấy
Là
một nước với ¾ diện tích là rừng, ngành công nghiệp giấy nước ta tập trung
nhiều, rộng khắp cả đất nước như Thái Nguyên, Phú Thọ. Công nghiệp giấy góp
phần tích cực vào nền kinh tế trong và ngoài nước và là nguyên liệu cho các
ngành sản xuất khác như giấy in, giấy tiền, giấy báo…
Sản lượng
giấy và bột giấy được sản xuất ở nước ta tăng qua các năm
·
Công nghiệp
dệt may
Đây
là ngành có truyền thống lâu đời ở Việt Nam và là ngành kinh tế quan trọng của
nước ta vì nó phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người, giải quyết được nhiều
việc làm cho xã hội và có thế mạnh trong xuất khẩu. Trong suốt những năm qua,
ngành dệt may nước ta đã có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu,
kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may tăng đều qua các năm. Năm 1995 kim ngạch xuất
khẩu ngành dệt may là 850USD, con số này đã tăng đến 3660USD vào năm 2013. Thi
trường xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may nước ta là Nhật, Hoa kỳ, EU…
·
Công nghiệp
da giầy
Kể từ khi Ủy
ban Châu Âu ra thông báo về việc chấm dứt áp dụng biện pháp chống bán phá giá
10% đối với giày mũ da nhập khẩu của Việt Nam, hoạt động sản xuất của các doanh
nghiệp ngành da giầy đã thuận lợi hơn so với trước, nhất là các doanh nghiệp
sản xuất giày thể thao xuất khẩu. Các doanh nghiệp hiện tại có nhiều đơn hàng
và tập trung đẩy mạnh sản xuất để hoàn thành các đơn hàng theo đúng yêu cầu của
đối tác. Tính chung 8 tháng đầu năm 2011 kim ngạch của ngành ước đạt 4,18 tỷ USD,
bằng 74,7% kế hoạch cả năm và tăng 29,2% so với cùng kỳ.
·
Công nghiệp
thuốc lá
Sau khi gia nhập WTO, hội nhập Kinh
tế quốc tế, tiềm năng xuất khẩu của thuốc lá Việt Nam ra thị trường nước ngoài
là rất lớn. Quy mô về thị trường xuất khẩu cũng ngày càng được mở rộng, từ các
nước lân cận trong khu vực Đông Nam Á, Đông Á… đến các thị trường khác xa xôi
như Trung Đông, Tây Phi, Trung Nam Mỹ… với nguồn khách hàng được trải rộng
nhiều nước trên toàn thế giới. Sản lượng toàn ngành năm 2011 đạt trên 105 tỷ
điếu, tăng gần 15% so với năm 2007 (91,5 tỷ điếu); tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
thuốc lá điếu trung bình hàng năm (giai đoạn 2007-20011) đạt trên 13%.Đặc biệt, ngành thuốc lá đã xây dựng được những sản
phẩm có chỗ đứng vững chắc tại thị trường nội địa
·
Công nghiệp
bia, rượu, nước giải khát
Trong những năm qua, ngành bia rượu,
nước giải khát của nước ta tương đối phát triển và mở rộng về quy mô cà thị
trường. Song, nhu cầu tiêu dùng hiện nay vẫn chỉ tập trung vào những sản phẩm
đã được khẳng định thương hiệu trên thị trường như bia Hà Nội, bia Sài Gòn…
1.2.2.
Công nghiệp
nặng
Công nghiệp nặng là lĩnh vực công
nghiệp sử dụng nhiều tư bản,
đối ngược với công nghiệp nhẹ là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động.
Công nghiệp nặng không dễ dàng tái phân bố như công nghiệp nhẹ vì nhiều tác
động đến môi trường và chi phí đầu
tư nhiều hơn.
·
Công nghiệp
thép
Công nghiệp
gang thép Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới. Vai trò của các
doanh nghiệp tư nhân dần mở rộng, những dự án đầu tư vốn nước ngoài với quy mô
lớn hơn đã và đang tập trung vào ngành công nghiệp này. Tuy nhiên do định hướng
chính sách phát triển thời gian qua thiếu bài bản đã dẫn đến thừa thép xây
dựng, trong khi các lĩnh vực thép phục vụ cho chế tạo, đóng tàu, ô tô, xe
máy... lại yếu và thiếu trầm trọng. Ngay cả những lĩnh vực cơ khí cần thép như
đóng tàu, ô tô, xe máy… cũng còn nhiều hạn chế trong quá trình phát triển cho
nên nếu có làm thép cho các lĩnh vực này cũng chưa thể phát huy tác dụng.
Vì vậy giai
đoạn phát triển mới này đòi hỏi những tiếp cận mới như tăng cường cạnh tranh,
sắp xếp lại cơ chế thu mua kim loại phế liệu song song với bảo vệ môi trường,
quản lý quá trình tự do hóa thương mại, đánh giá các dự án vốn đầu tư nước
ngoài và tăng cường vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp.
·
Công nghiệp
khai thác than
Than là nguồn
năng lượng đầu vào của tất cả các ngành công nghiệp, là sản phẩm xuất khẩu cũng
như làm chất đốt trong sinh hoạt hằng ngày. Tổng trữ lượng than năm 2011 của
nước ta khoảng hơn 7 tỷ tấn. Sản lượng khai thác năm 2007 khoảng 49,141 triệu
tấn/năm chiếm 0,69% sản lượng thế giới, đứng thứa 6 châu Á và thứ 17 thế giới.
Than nước ta chủ yếu tập trung ở Quảng Ninh, các tỉnh Thái Nguyên, Sơn La, đồng
bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long... Tuy nhiên, hiện nay ngành than
đang gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ khai thác lộ thiên, xuất khẩu ngày càng giảm. Số
thợ lò tuyển vào hằng năm không đủ bù cho số lượng lao động đã đến tuổi nghỉ
hưu hoặc xin thôi việc để tìm công việc khác nhẹ nhàng hơn. Bên cạnh đó việc
khai thác than dẫn đến các vấn đề ô nhiễm không khí, sông hồ, tiếng ồn, mạch
nước ngầm...gây ảnh hưởng không nhỏ tới sinh hoạt của người dân các vùng lân
cận.
·
Công nghiệp
xi măng
Trong ngành
vật liệu xây dựng thì xi măng chiếm một vị trí quan trọng. Nước ta có những nhà
máy xi măng lớn như: Hải phòng, Hoàng thạch, Bỉm Sơn, Hà tiên, Kiên giang và
một số nhà máy liên doanh đang đưa vào hoạt động. Toàn bộ công suất của các nhà
máy này đủ khả năng cung ứng cho thị trường trong nước và đã xuất khẩu khoảng
200.000 tấn/ năm.
·
Sản xuất phân bón
Đây là ngành công nghiệp phục vụ chủ
yếu cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp sản xuất phân
bón trong nước tiếp tục phải cạnh tranh với phân bón ngoại nhập giá rẻ. Để ổn
định và phát triển, các doanh nghiệp sản xuất phân bón cần thực hiện đồng bộ
các giải pháp tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh công tác xúc
tiến thương mại để tìm thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường khu vực
ASEAN như: Lào, Campuchia...
Nhìn
chung, trong thời gian qua các ngành công nghiệp khai khoáng tăng 3,5%, công
nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5%... Một số ngành công nghiệp từng là thế mạnh
của Việt Nam đang có mức tăng thấp hoặc giảm so với năm 2011 là may mặc tăng
2,3%, sản xuất gang thép tăng 2,2%, sản xuất giày dép giảm 0,9%, sản xuất xi
măng giảm 6%, sản xuất mô tô xe máy giảm 14,6%. Trong thời gian tới, đòi hỏi chính
sách cong nghiệp phải có những thay đổi phù hợp với thực tế và tiềm năng đất
nước hơn.
II. Phân tích hiện trạng ngành
công nghiệp Việt Nam
2.1. Ưu thế ngành công nghiệp Việt Nam
Là
một nước có nền chính trị tương đối ổn định, tài nguyên thiên nhiên phong phú,
lao động dồi dào Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc phát triển kinh tế, thu
hút đầu tư nước ngoài cũng như phát triển các ngành công nghiệp.
Tài
nghuyên thiên nhiên phong phú là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp khai
thác, công nghiệp chế biến, cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp
khác, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước
Tài
nguyên khoáng sản của tỉnh Quảng Trị khá phong phú và đa dạng, đặc biệt là
khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất xi măng và làm vật liệu xây dựng. Đây là
điều kiện để tỉnh có thể phát triển mạnh công nghiệp xi măng và vật liệu xây
dựng.
Bờ
biển nước ta kéo dài từ bắc vào nam, cộng thếm ¾ diện tích là rừng, hệ thống
sông ngòi dày đặc là điều kiện thuận lợi phát triển ngành công nghiệp khai thác
và chế biến nông lâm thủy hải sản.
Các tài
nguyên về than, khoáng sản, nguồn lao động dồi dào cũng là cơ sở để các ngành
công nghiệp nước ta phát triển.
2.2.Lĩnh vực công nghiệp đang đợi khai phá,
điều chỉnh đầu tư
Là
nhóm ngành hiện tại năng lực cạnh tranh còn thấp nhưng có tiềm năng phát triển
trong tương lai. Đây là nhóm ngành ứng dụng khoa học công nghệ mới, công nghệ
hiện đại, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng nguồn lao động
có trình độ, phát triển theo hướng hội nhập, sản xuất sản phẩm thay thế nhập
khẩu và khai thác, mở rộng thị trường nước ngoài. Nhóm ngành này bao gồm lĩnh
vực sản xuất linh kiện điện tử, phần mềm; hoá dược, hoá mỹ phẩm, chất tẩy rửa;
cơ khí chế tạo; nhóm sản phẩm từ công nghệ mới. Định hướng phát triển của nhóm ngành này trong
giai đoạn tới là tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển, chủ
động tiếp cận, từng bước thực hiện chuyển giao công nghệ, phát triển trước một
bước công nghiệp phụ trợ và tăng cường công tác đào tạo lao động có trình độ
cao để đáp ứng nhu cầu phát triển của nhóm ngành này trong tương lai
Mục tiêu phát
triển của nhóm ngành này là phấn đấu đạt giá trị xuất khẩu các sản phẩm phần;
tập trung phát triển lĩnh vực chế tạo linh kiện điện tử, điện tử công nghiệp,
công nghiệp công nghệ thông tin; hình thành một số trung tâm đúc, rèn, nhiệt
luyện, tạo phôi có công nghệ tiên tiến, phấn đấu đáp ứng 50% nhu cầu chế tạo
thiết bi trong nước; xây dựng ngành công nghiệp hoá dược đáp ứng 40-45% nhu cầu
thuốc kháng sinh, 30-35% nhu cầu nguyên liệu sản xuất vitamin C, 20% nhu cầu về
tá dược, 100% nhu cầu về hoạt chất từ nguồn nguyên liệu thiên nhiên (cây có
dầu).
Một
trong những lĩnh vực này là ngành vực công nghiệp môi trường là ngành công
nghiệp cung cấp các công nghệ, thiết bị, dịch vụ, sản phẩm môi trường phục vụ
yêu cầu bảo vệ môi trường nhằm xử lý, kiểm soát ô nhiễm, khắc phục suy thoái,
hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm và cải thiện chất lượng môi trường Hiện nay,
hoạt động môi trường của Việt Nam đang dần trở nên chuyên môn hoá sâu, mang
tính công nghiệp với các doanh nghiệp chuyên sản xuất và cung ứng dịch vụ. Mặc
dù, ngành công nghiệp môi trường ở Việt Nam chưa chính thức hình thành nhưng đã
và đang có những đóng góp tích cực không chỉ cho bảo vệ môi trường mà còn hứa
hẹn như một ngành kinh tế với nhiều tiềm năng phát triển. Đến nay, hệ thống các
công ty môi trường đô thị đã phát triển ở hầu hết các tỉnh/thành trên cả nước.
Hơn nữa, các lĩnh vực hoạt động môi trường hiện nay không ngừng được mở rộng
không chỉ môi trường đô thị, mà còn phát triển rất nhanh sang khu vực doanh
nghiệp, khu công nghiệp, kiểm soát ô nhiễm, tái chế và quản lý tài nguyên, sản
xuất thiết bị, công nghệ. Vì vậy, ngoài các công ty môi trường đô thị còn có
các doanh nghiệp tư nhân cả trong nước và nước ngoài với các hình thức liên
doanh, liên kết. Có thể nói, ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đã có những
bước đi ban đầu nhưng sự phát triển của ngành công nghiệp này vẫn có nhiều trở
ngại như: chưa hình thành cơ quan đầu mối phát triển công nghiệp môi trường,
thị trường cho công nghệ và dịch vụ môi trường chưa phát triển; đội ngũ các nhà
khoa học và công nghệ môi trường còn yếu và thiếu, đặc biệt là chuyên gia có
trình độ cao, nhiều kinh nghiệm; uy tín của các nhà cung cấp công nghệ, thiết
bị và dịch vụ trong nước chưa đủ thuyết phục; cơ chế, chính sách khuyến khích
còn chưa rõ ràng và chưa đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp
môi trường; nhận thức của người dân và doanh nghiệp về trách nhiệm bảo vệ môi
trường chưa cao; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, chế tài xử phạt chưa đủ mạnh…
Theo
kết quả điều tra khảo sát đánh giá về nhu cầu và năng lực phát triển ngành công
nghiệp môi trường tại 20 tỉnh, thành trên cả nước của Bộ Công Thương, kết quả
đánh giá sơ bộ ban đầu cho thấy thị trường cho ngành công nghiệp môi trường ở
Việt Nam có tiềm năng tương đối lớn. Lượng chất thải rắn phát thải hiện nay
khoảng 30 triệu tấn và mức tăng trưởng hàng năm khoảng 7%. Ước tính nhu cầu thị
trường cho lĩnh vực xử lý chất thải rắn hàng năm khoảng 2,340 tỷ đồng và dự báo
đến năm 2010 đạt khoảng 3,900 tỷ. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, tiềm
năng tái chế chất thải rắn công nghiệp cũng là rất cao, ở nhiều ngành tỷ lệ
chất thải có khả năng tái chế đạt hơn 80%. Mỗi năm sẽ tiết kiệm được 54 tỷ đồng
nếu mỗi cơ sở sản xuất của 6 ngành công nghiệp tái chế 50% lượng chất thải của
cơ sở mình. Những tiềm năng khác về các lĩnh vực khác như phòng ngừa kiểm soát
ô nhiễm, dịch vụ hỗ trợ kĩ thuật, tư vấn chuyển giao công nghệ; sản xuất thiết
bị, vật tư, nguyên liệu và sản phẩm thân thiện môi trường cũng là rất lớn. Tuy
nhiên, hiện nay năng lực các đơn vị cung cấp dịch vụ môi trường ở Việt Nam còn
hạn chế, kinh nghiệm, tính chuyên môn hóa và chuyên nghiệp còn thấp. Chưa có
các chính sách ưu đãi về đầu tư, hỗ trợ thuế, lãi suất. Hầu hết các doanh
nghiệp kinh doanh bằng vốn tự có, chưa có sự bảo lãnh của các cơ quan tài chính
ngân hàng. Để phát triển ngành công nghiệp này, Việt Nam cần sớm xây dựng một
hệ thống các cơ chế chính sách phù hợp nhằm tăng cường sự tham gia của doanh
nghiệp, người dân đầu tư nhiều hơn nữa vào lĩnh vực xử lý môi trường; tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước,
trong nước và quốc tế trong việc tham gia các dự án đấu thầu cung cấp công nghệ
và thiết bị xử lý môi trường. Nhà nước cần đảm bảo cơ chế thu phí môi trường và
thanh toán lại cho nhà đầu tư, điều này sẽ góp phần thu hút đáng kể lượng vốn
đầu tư tư nhân (mà không cần phải dựa vào nguồn vốn vay ODA) vào lĩnh vực công
nghệ và thiết bị xử lý môi trường.
III. Chính sách đầu tư của Việt
Nam
3.1. Loại hình công nghiệp được nhà nước bảo hộ
3.2. Lĩnh vực được khuyến khích
Với xu thế hội nhập quốc tế, phát triển đất nước theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay thì việc ưu tiên phát triển
các ngành công nghiệp là điều cần thiết. Một số ngành công nghiệp được quan
tâm, khuyến khích phát triển:
Công nghiệp hóa dầu - hóa chất: Dầu mỏ là một trong những nhiên
liệu quan trọng nhất của xã hội hiện đại dùng để sản xuất điện và cũng là nhiên
liệu của tất cả các phương tiện giao thông vận tải. Hơn nữa, dầu cũng được sử
dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất các chất dẻo và nhiều sản phẩm khác.
Vì thế dầu thường được ví như là "vàng đen".
Công nghiệp nặng và quy mô lớn (thép tấm cán nóng, cán nguội, chế
tạo thiết bị tàu thuỷ, cơ khí chế tạo khác) gắn với cảng biển nước sâu để nhập
nguyên liệu, xuất hàng hoá cũng phục vụ cho ngành hàng hải của nước ta
Ngoài ra các ngành công
nghiệp như sản xuất - lắp ráp ô tô; sản xuất động cơ, linh kiện, sản
xuất, lắp ráp thiết bị điện, điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp; vật
liệu mới, các ngành công nghiệp phụ trợ và vệ tinh cho công nghiệp lọc hóa dầu,
hóa chất, đóng tàu, cơ khí, luyện kim...cũng là các ngành công nghiệp được
khuyến khích hiện nay.
Với lợi thế bờ biển dài, nguồn tài nguyên biển phong phú, lĩnh vực
đầu tư kinh doanh cảng biển và dịch vụ hàng hải cũng đã và đang được khuyến
khích.
IV. Thương mại quốc tế
4.1. So sánh Công nghiệp Việt, Trung
Có
một điều khác biệt quan trọng giữa kinh tế Trung Quốc và kinh tế Việt Nam mà ít
ai để ý là hướng phát triển đối nghịch nhau ở hai nước: ở Trung Quốc, xí nghiệp
tập thể ở nông thôn phát triển đáng kể và đã đóng góp tích cực vào việc tạo
thêm việc làm, trong khi kinh tế quốc doanh giảm dần vai trò của mình; ngược
lại ở Việt Nam, thành phần kinh tế tập thể gần như hoàn toàn tan rã, kinh tế
quốc doanh ngày càng phát triển. Kinh tế nói chung và ngành công nghiệp nói
riêng của hai nước có sự khác biệt nhau.
Trung Quốc là
nước có số dân đông nhất thế giới cùng với đường lối chính sách mở cửa, nguồi
tài nguyên dồi dào phong phú , nhiều nguồn lao động . Nhờ đó Trung Quốc có đủ
điều kiện phát triển ngành công nghiệp nặng. Quá trình công nghiệp hóa của
Trung Quốc tiến nhanh trên quy mô lớn. Nhiều ngành trong công nghiệp chế biến,
chế tác phát triển trên dưới 20% mỗi năm như đồ điện gia dụng, xe hơi, máy tính
cá nhân và nhiều loại máy móc khác. Trong nhiều mặt hàng thuộc các ngành này,
Trung Quốc chiếm tới trên dưới 40% sản lượng thế giới. Vì vậy mà Trung Quốc
được xem là công xưởng của thế giới.
Sự phát triển của Trung Quốc ngày càng dựa vào xuất khẩu. Xuất
khẩu ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong qúa trình công nghiệp hóa của nước
nầy. Tỉ trọng của xuất khẩu trong GDP chỉ có 7 % vào năm 1980 nhưng đã tăng lên
33% năm 2008. Xuất khẩu của Trung Quốc hiện nay cũng hầu hết là hàng công
nghiệp. Vào những năm mới mở cửa, tỉ trọng của hàng công nghiệp trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của Trung Quốc chưa tới 50% nhưng từ năm 2001 con số đó đã lên
trên 90%. Như vậy trong quá trình phát triển, Trung Quốc ngày càng hướng ngoại
và chiếm lĩnh thị trường thế giới bằng hàng công nghiệp.
Tuy nhiên các tỉnh Trung Quốc cạnh tranh đầu tư vào sản xuất hàng
công nghiệp, gây nên hiện tượng đầu tư trùng lặp và sản xuất thừa làm kém hiệu
suất của toàn nền kịnh tế. Nhưng đối với Việt nam và các nước có nền kinh tế
còn nhỏ ở Đông Nam Á, hiện tượng sản xuất thừa của Trung Quốc là một trong
những nguyên nhân chính làm tràn ngập hàng công nghiệp giá rẻ vào thị trường
các nước nầy.
Mặt khác cơ cấu công nghiệp của Trung Quốc ngày càng chuyển dịch
lên cao. Khuynh hướng này phản ảnh rõ trong cơ cấu xuất khẩu. Trung Quốc tập
trung xuất khẩu những mặt hàng thuộc nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng cao như
máy tính, máy móc về viễn thông, về y tế, dược phẩm, v.v.. . Nếu kể cả nhóm
hàng dùng nhiều kỹ năng vừa phải như xe hơi, xe máy, đồ điện gia dụng, kim khí,
v.v.. thì tỉ trọng của 2 nhóm hàng này chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Trung Quốc. Một điểm đáng chú ý là các mặt hàng có hàm lượng kỹ năng thấp
như may mặc, giày dép, dụng cụ lữ hành, v.v.. vẫn còn chiếm một tỉ trọng lớn.
Điều nầy cho thấy các loại hàng công nghiệp, từ trình độ thấp đến trình độ cao
Trung Quốc đều hiện diện trên thị trường thế giới với số lượng lớn.
Trong khi đó Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nông sản, nguyên
liệu, và trong các sản phẩm công nghiệp thì Việt Nam phải cạnh tranh với Trung
Quốc trong những mặt hàng dùng công nghệ thấp và dùng nhiều lao động kỹ năng
thấp. Tỉ trọng các mặt hàng đòi hỏi lao động có kỹ năng cao năm 2008 chỉ bằng
Trung Quốc vào năm 1990.
Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng công nghiệp chiếm
khoảng 60% nhưng chủ yếu là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn. Thêm vào
đó, sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên liệu và sản phẩm trung
gian nhập khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm lượng kỹ năng lao động
cao, chỉ chiếm độ 10% tổng xuất khẩu.
Danh mục
|
Trung Quốc
|
Việt Nam
|
||||
1997
|
2002
|
2008
|
1997
|
2002
|
2008
|
|
Nông phẩm
và nguyên liệu
|
7.4
|
5.1
|
2.6
|
32.9
|
26.1
|
21.2
|
Khoáng sản
|
3.1
|
2.1
|
1.8
|
17.6
|
19.8
|
18
|
Bán thành
phẩm
|
15.4
|
13.6
|
14.8
|
5.4
|
6.5
|
9.2
|
Sản phẩm CN
có hàm lượng kỹ năng lao động thấp
|
43.3
|
36.5
|
30.5
|
35.1
|
37.3
|
36.4
|
Sản phẩm CN
có hàm lượng kỹ năng lao động trung bình
|
13.7
|
12.7
|
19.4
|
3.2
|
4.8
|
7.1
|
Sản phẩm CN
có hàm lượng kỹ năng lao động cao
|
17.2
|
28.2
|
30.9
|
5.9
|
5.5
|
8
|
Từ
bảng trên cho thấy Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp trên quy mô
lớn và triển khai hầu như toàn diện trong các lãnh vực, từ sản phẩm có hàm
lượng công nghệ thấp đến các sản phẩm có hàm lượng kỹ năng cao, công nghệ cao;
đồng thời Trung Quốc triển khai phân công hàng ngang, phân công nội ngành với
các nước khác trong các mặt hàng chế tạo các loại máy móc, là những lãnh vực
chủ đạo trong mậu dịch quốc tế hiện nay
Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thì nguyên liệu và nông sản phẩm
chiếm vị trí áp đảo. Các sản phẩm công nghiệp khác vẫn còn ít. Trong các mặt
hàng Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc thì mặt hàng công nghiệp chiếm vị trí áp
đảo.
Các loại hàng này có thể chia ra thành 3 nhóm: thứ nhất là nguyên
vật liệu hoặc sản phẩm trung gian như thép để chế biến thành phẩm tiêu dùng,
hai là các loại máy móc (và bộ phận, linh kiện) như xe hơi, khí cụ dùng cho bưu
chính viễn thông, và nhóm thứ ba là các loại sản phẩm trung gian ngành dệt may
như tơ sợi tổng hợp, vải bông, vải may nội y,… Điều này cho thấy nền công
nghiệp Việt Nam quá mỏng manh, phụ thuộc nhiều vào sản phẩm trung gian nhập từ
Trung Quốc. Nếu xét đến quá trình phát triển kinh tế, Việt Nam lẽ ra phải có
lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực vải sợi (trừ loại sợi cao cấp chủng loại đặc
biệt như tơ sợi tổng hợp).
Tuy nhiên
trên thực tế, các sản phẩm như vải dệt may hay dệt kim hầu hết Việt Nam phải
nhập từ Trung Quốc.Trong vài ngành nằm trong dây chuyền cung ứng toàn cầu của
các công ty đa quốc gia (các loại máy dùng cho văn phòng như máy tính xách tay,
máy in, …) Việt Nam có xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng kim ngạch còn rất nhỏ.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nền kinh tế phát triển với tốc độ
cao hoặc tương đối cao, lại ở cạnh nhau nên hội đủ cấc yếu tố thuận lợi trong
mô hình về lực dẫn. Đặc biệt đối với Việt Nam, Trung Quốc là nền kinh tế lớn và
phát triển nhanh. Thế nhưng Việt Nam không tận dụng được thế mạnh này, chỉ xuất
khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế trong khi các nước khác đẩy mạnh được xuất khẩu
hàng công nghiệp sang nước này
4.2. Lời khuyên cho đầu tư nước ngoài
Xu hướng đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đang tăng mạnh những năm gần đây. Theo
Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến 20/12/2012 có 712 dự án
của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đăng
ký đạt 12,4 tỷ USD. Dự kiến năm 2013, vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài đạt
khoảng 1-1,5 tỷ USD; vốn thực hiện 900 triệu USD đến 1 tỷ USD.
Đến nay, Việt Nam đã đầu tư
vào 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong năm 2012, có 75 dự án đầu tư mới được
cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 1,3 tỷ USD tại 28 quốc gia
và vùng lãnh thổ.
Tuy nhiên, theo các chuyeeng
ia, khi đầu tư ra nước ngoài cần xem xét cẩn thận, kỹ lưỡng, nên chọn những thị
trường có vị trí đắc đại, hành lang pháp lỹ thông thoáng, hệ thống tài chính
minh bạch, chuyên nghiệp. Những thị trường như vậy là môi trường đầu tư an toàn
cho các nhà đầu tư và cá nhân lẫn tổ chức
Một
số nguyên tắc quan trọng nhất giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro khi đầu tư ra
nước ngoài là tìm hiểu kỹ thông tin của đối tác, không chỉ từ các nguồn chính
thống mà còn cần “nghe ngóng” từ nhiều nguồn khác.
“Cẩn tắc vô
ưu” - doanh nghiệp không nên giao hàng nếu chưa nhận được thanh toán hoặc hợp
tác với ngân hàng để có sự bảo đảm về tín dụng khi đối tác không thanh toán
đúng hợp đồng. Việc thuê tư vấn, luật sư để được hỗ trợ thủ tục pháp lý đúng
quy định của nước sở tại là rất cần thiết.
Tùy
vào nhu cầu và điều kiện của mình mà nhà đầu tư có thể lựa chọn hình thức đầu
tư cá nhân hay tổ chức, thông qua công ty, hùn vốn với đối tác, ủy thác hoặc
thông qua bên thứ 3 (ngân hàng, quỹ đầu tư, các đơn vị quản lý tài sản…)
Nếu các nhà
đầu tư cá nhân có nhu cầu bảo vệ tài sản thì có thể lựa chọn đầu tư vào tiền
tệ, vàng hay bất động sản. Các loại tài sản thực như bất động sản, đất đai,
nông trại; kim loại quý: vàng, bạc, palladium, bạch kim… với đặc tính chống lạm
phát là lựa chọn phổ biến mà nhiều nhà đầu tư ưa thích.
Yếu
tố văn hóa cũng đóng vai trò then chốt trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Những
hiểu lầm về văn hóa sẽ ngăn cản giao dịch, cản trở quá trình hợp tác hoặc thậm
chí, dẫn đến tranh chấp pháp lý. Để vượt qua những rào cản này, điều cốt yếu mà
các nhà đầu tư nên làm là sử dụng thông thạo ngôn ngữ địa phương.
Công
nghiệp góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng nền kinh tế quốc gia. Qua đó
ta thấy được tầm quan trọng của ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp có liên
quan đến hầu hết các ngành khác của nền kinh tế. Vì vậy, Việt Nam cần phải tập
trung khai thác thế mạnh của công nghiệp để không chỉ phát triển công nghiệp àm
còn phát triển các ngành khác liên quan. Bên cạnh đó cần tìm ra những hạn chế,
khó khăn của ngành công nghiệp nước nhà để
có biện pháp và hướng đi đúng đắn cho ngành. Để làm được điều đó cần vạch
ra mục tiêu, kế hoạch lâu dài cho ngành, để bên cạnh việc phát huy điểm mạnh
chúng ta sẽ khắc phục được điểm yếu. Từ đó tạo lên sắc thái bộ dạng mới cho
công nghiệp nước nhà.
Tóm lại ngành
công nghiệp sẽ ngày càng phát triển nếu ta biết tận dụng những cơ hội, khai
thác những tiềm năng, thế mạnh của đất nước cũng như có chính sách, định hướng
phát triển đúng đắn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét