
Ngày nay, khi dân số ngày càng tăng
cùng với các vấn đề phát sinh trong môi trường thì việc bảo vệ nó càng ngày
càng được coi trong hơn. Không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền vận đông người
dân giữ vệ sinh nơi công cộng hay không vứt rác bừa bãi mà việc làm thế nào để
cải thiện môi trường cũng được nâng cao. Kinh tế phát triển kéo theo vô vàn các
loại hình kinh doanh, nhưng việc kết hợp vừa kinh doanh tốt lại vừa cải thiện
được môi trường thì thực sự không phải ai cũng nghĩ đến. Thông thường, khi kinh
doanh người ta thường nghĩ đến lợi ích kinh tế nhiều hơn là hậu quả của nó ảnh
hưởng đến môi trường ra sao. Nhưng thực tế, nếu kinh doanh mà không thể bảo vệ
môi trường khi không thể phát triển bền vũng được.
Khi nhu cầu càng ngày càng tăng, việc
vui chơi giải trí mà lại có ích cho môi trường luôn được coi trọng. Hình thức
vui chơi kết hợp với bảo vệ, cải thiện môi trường mà người dân hướng tới đó
chính là du lịch sinh thái, một hình thức du lịch mang tính thiên nhiên, nhưng
lại có mục đích giáo dục về bảo vệ môi trường. Du khách không chỉ được khám
phá, được nghiên cứu mà còn được học cách trân trọng, giữ gìn sự trong sạch của
môi trường. Kết hợp với đi du lịch, các dịch vụ nhà nghỉ khách sạn cũng không
ngừng tăng cao. Hiện nay, dịch vụ nhà nghỉ khách sạn cũng góp phần rất quan
trong trong việc tác động vào môi trường. Một mô hình khách sạn mới lạ sẽ thu
hút được khách không chỉ về kiểu dáng, công dụng mà còn cả chất lượng của nó.
Vì vậy,
tôi quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu mô hình khách sạn sinh thái trên thế giới”
đề hoàn thiện bài luận văn của mình
CHƯƠNG
I: CÁC KHÁI NIỆM
1.
Khái niệm về sinh thái
Hệ sinh thái là tổ hợp
của một quần xã sinh vật với môi trường vật lý mà quần xã đó tồn tại, trong đó
các sinh vật tương tác với nhau và với môi trường để tạo
nên chu trình vật chất (chu trình
sinh-địa-hoá) và sự chuyển hóa của năng lượng.
Thuật ngữ “Hệ sinh thái”
(Ecosystem) được A. Tansley nêu ra vào năm
1935 và trở thành phổ biến, được
sử dụng rộng rãi nhất vì nó không chỉ bao hàm các hệ sinh thái tự nhiên
mà cả các hệ sinh thái nhân tạo
Hệ sinh thái luôn là một
hệ động lực hở và tự điều chỉnh, bởi vì trong quá trình tồn tại và phát triển,
hệ phải tiếp nhận cả nguồn vật chất và năng lượng từ môi trường. Điều này làm
cho hệ sinh thái hoàn toàn khác biệt với các hệ thống vật chất khác có trong tự
nhiên.
2.
Khái
niệm du lịch sinh thái
Ngày nay sự hiểu biết về
du lịch sinh thái đã phần nào được cải thiện, thực sự đã có một thời gian dài
du lịch sinh thái là chủ đề nóng của các hội thảo về chiến lược và chính sách
bảo tồn và phát triển các vùng sinh thái quan trọng của các quốc gia và thế
giới. Thực sự đã có nhiều nhà khoa học danh tiếng tiên phong nghiên cứu lĩnh
vực này, điển hình như:
Hector
Ceballos-Lascurain- một nhà nghiên cứu tiên phong về du lịch sinh thái(DLST),
định nghĩa DLST lần đầu tiên vào năm 1987 như sau: "Du lịch sinh thái là
du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với những
mục tiêu đặc biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và giới
động-thực vật hoang dã, cũng như những biểu thị văn hoá (cả quá khứ và hiện
tại) được khám phá trong những khu vực này" trích trong bài giảng Du lịch
sinh thái của Nguyễn Thị Sơn.
Năm 1994 nước Úc đã đưa
ra khái niệm “DLST là Du lịch dựa vào thiên nhiên, có liên quan đến sự giáo dục
và diễn giải về môi trường thiên nhiên được quản lý bền vững về mặt sinh thái”.
Theo Hiệp hội DLST Hoa
Kỳ, năm 1998 “DLST là du lịch có mục đích với các khu tự nhiên, hiểu biết về
lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường, không làm biến đổi tình
trạng của hệ sinh thái, đồng thời ta có cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ
nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng địa phương”.
Một định nghĩa khác của
Honey (1999) “DLST là du lịch hướng tới những khu vực nhạy cảm và nguyên sinh
thường được bảo vệ với mục đích nhằm gây ra ít tác hại và với quy mô nhỏ nhất.
Nó giúp giáo dục du khách, tạo quỹ để bảo vệ môi trường, nó trực tiêp đem lại
nguồn lợi kinh tế và sự tự quản lý cho người dân địa phương và nó khuyên kích
tôn trọng các giá trị về văn hóa và quyền con người”.
Ở Việt Nam vào năm 1999
trong khuôn khổ hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển du lịch
sinh thái đã đưa ra định nghĩa như sau: “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch
thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường có tác động tích
cực đến việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về tài
chính cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn”.
Năm 2000, Lê Huy Bá cũng
đưa ra khái niệm về du lịch sinh thái “DLST là một loại hình du lịch lấy các hệ
sinh thái đặc thù, tự nhiên làm đối tượng để phục vụ cho những khách du lịch
yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng thức những cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ
sinh thái. Đó cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh
tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp của quốc gia cũng như giáo dục
tuyên truyền và bảo vệ, phát triền môi trường và tài nguyên thiên nhiên một
cách bền vững”.
Trong luật du lịch năm
2005, có một định nghĩa khá ngắn gọn “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch
dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của
cộng đồng nhằm phát triển bền vững”. Theo quy chế quản lý các hoạt động du lịch
sinh thái tại các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên, do bộ Nông nghiệp và PTNT ban
hành năm 2007, thì Du lịch Sinh thái được hiểu là “Du lịch sinh thái: Là hình
thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự
tham gia của cộng đồng dân cư ở địa phương nhằm phát triển bền vững”.
Theo Hiệp hội Du lịch
Sinh Thái (The Internatonal Ecotourism society) thì “DLST là du lịch có trách
nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi
cho nhân dân địa phương”.
Qua tìm hiểu các khái
niệm trên ta có thể thấy rằng các khu bảo tồn và VQG là nơi phù hợp nhất, bởi
đây chính là nơi có nhiều yếu tố hấp dẫn khách du lích sinh thái.
Những yếu tố này có thể
là một hoăc nhiều loài động thực vật quý hiếm và đặc hữu, cuộc sống hoang dã
phong tục tập quán, tính đa dạng sinh học cao, địa hình hùng vĩ, các khu di
tích lịch sử hoặc văn hóa đương đại, mang tính đặc thù trong điều kiện tự
nhiên. Những yếu tố này sẽ làm lợi cho các đơn vị tổ chức du lịch sinh thái và
cộng đồng địa phương do vậy các yếu tố này sẽ được bảo vệ tốt, chính đây là mối
quan hệ giữa du lịch và các Khu bảo tồn và VQG.
Ở Việt Nam nói chung và
ở VQG nói riêng, một yếu tố gây hấp dẫn cho khách du lich đó là những thông tin
về Đa dạng sinh học, những phát hiện mới về các loài động thực vật và những
cảnh đẹp thiên nhiên. Tuy nhiên cũng phải khẳng định rằng các khách đến với các
khu bảo tồn và VQG không hẳn là khách Du lịch sinh thái, mà họ chỉ có những sở
thích về muốn khám phá cảnh đẹp, do vậy họ chỉ lựu lại những khu vực này với
thời gian rất ngắn, họ không muốn có những trải nghiệm thực sự với thiên nhiên.
Nhưng không là quan trọng miễn là chúng ta có cách quản lý tốt, họ cũng là
những nguồn thu lợi hiệu quả góp phần vào cho việc bảo tồn và cải thiện sinh kế
cho người dân ở đây như một giải pháp trước mắt, nhưng đó không phải là đối
tượng chính cho của hoạt động du lịch sinh thái. Mà các hoạt động du lịch sinh
thái ở đây phải được xây dựng bám sát định nghĩa về du lịch sinh thái. Nhằm đảm
bảo rằng phát triển du lịch sinh thái không làm tổn hại đến VQG và tăng nguồn
thu nhập một cách bền vững cho cộng đồng địa phương bằng các hoạt động du lịch
sinh thái.
Hiện nay DLST đang đóng
một vai trò quan trọng trong nhiều dự án bảo tồn thiên nhiên và phát triển cảnh
quan, các mục tiêu của DLST có liên quan đến các khu bảo tồn thiên nhiên là:
Du lịch sinh thái là
cách tốt nhất nhằm giúp cả cộng đồng địa phương và các KBTTN & VQG. Đó cũng
là một hợp phần lý tưởng của chiến lược phát triển bền vững trong đó tài nguyên
thiên nhiên được sử dụng như một yếu tố thu hút khách du lịch mà không gây tác
hại tới thiên nhiên của khu vực. Là một công cụ quan trọng trong quản lý các
KBTTN & VQG. Tuy vậy phát triển DLST phải đảm bảo được phát triển phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể.
3.
Khái
niệm về khách sạn
Khách sạn là
một công trình kiến trúc kiên cố, có nhiều tầng, nhiều phòng ngủ được trang bị
các thiết bị, tiện nghi, đồ đạc chuyên dùng nhằm mục
đích kinh doanh các dịch vụ lưu trú, phục vụ ăn uống và các dịch vụ bổ sung
khác. Tùy theo nội dung và đối tượng sử dụng mà phân loại khách sạn tạm trú, du lịch, nghỉ dưỡng, hội nghị, v.v... Theo mức độ tiện
nghi phục vụ, khách sạn được phân hạng theo số lượng sao từ 1 đến 5 sao.
Khách sạn là cơ sở kinh
doanh lưu trú phổ biến trên Thế giới, đảm bảo chất lượng và tiện nghi cần thiết
phục vụ kinh doanh lưu trú, đáp ứng một số yêu cầu về nghỉ ngơi, ăn uống, vui
chơi giải trí và các dịch vụ khác trong suốt thời gian khách lưu trú tại khách
sạn, phù hợp với động cơ, mục đích chuyến đi.
Khách sạn được hiểu là
một loại hình doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích sinh lời
4.
Khái
niệm về khách sạn sinh thái
Khách
sạn sinh thái được hiểu là một hình thức khách sạn có quy mô và tổ chức như những
khách sạn khác tuy nhiên, khách sạn sinh thái kinh doanh không chỉ với mục đích
là lợi nhuận mà còn có mục đích là bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, kéo du khách gần gũi với thiên nhiên hơn, phát triển dịch vụ bền vững
5.
Mục
đích, đặc điểm và nhiệm vụ của mô hình khách sạn sinh thái
Ø Mục
đích
-
Sự tương thích về mặt sinh thái và văn hóa của phát triển khách
sạn sinh thái là một điều kiện quan trọng.
-
Phát triển dịch vụ khách sạn sinh thái kết hợp du lịch phải hỗ trợ
tài chính cho công tác bảo tồn ở các khu BTTN và VQG.
-
Tạo thu nhập cho người dân địa phương.
-
Góp phần quan trọng nhằm thuyết phục mọi người chấp nhận bảo tồn
thiên nhiên là một kết quả gián tiếp của các tác động kinh tế
Ø Đặc
điểm
-
Kinh doanh kết hợp phát triển và bảo vệ tài nguyên, gần gũi với
thiên nhiên
-
Hệ thống nước dùng, xử lý nước thải, rác thải được quản lý nghiêm
ngặt
-
Khách sạn được xây dựng tại các khu du lịch, có sự sáng tạo về
kiểu dáng lạ mắt, dựa trên ý tưởng từ những gì sẵn có trong thiên nhiên
-
Khách sạn được xây dựng giúp khách có cơ hội được trải nghiệm,
khám phá
-
Khách sạn sinh thái luôn gắn với nhu cầu
động cơ hướng về cội nguồn và duy trì quan hệ tốt đẹp, thân thiện
-
Sự phát triển của xã hôi hiện đại, đặc
biệt sự phát triển của công nghiệp và đô thị hóa đã kèm theo ô nhiễm về không
khí, nước uống, sự quá tải thông tin, áp lực của công việc, các mối quan hệ xã
hội đã tạo ra các trạng thái tâm lý căng thẳng. Vì thế, nhu cầu thư giãn, nghỉ
ngơi trong môi trường sinh thái để tìm lại sự cân bằng tâm lý ngày càng phát
triển
-
Du khác du lịch khi vào các khách sạn
sinh thái muôn được tiêu dùng các sản phẩm trong sạch, tinh khiết (như thực phẩm,
rau xanh, hoa quả, nước uống, không khí trong lành, tinh khiết sạch sẽ,…). Du
khách muốn được thả mình trong môi trường cảnh quan yên tĩnh, xung quanh khách
sạn có nước suối trong suốt, những đàn cá tung tăng bay lượn, trên cây sương mù
bao phủ, khí hậu lành mạnh, rừng già với những than cây cổ thụ, phong rêu phủ
kín, trên cây tiếng chim rúi rít, phía dưới thác nước chảy ào ào. Bên cạnh đó
còn có tiếng suối reo nhè nhẹ, tạo nên những bản nhạc rừng hết sức ấn tượng quyện
với mùi hương thoang thoảng của các loại hoa rừng
-
Môi trường xung quang khách sạn sinh
thái cũng ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý của du khách, tạo cho họ ấn tượng mạnh mẽ
những rung cảm tuyệt vời. Du khách sẽ như được cảm thấy sống trong một thế giới
huyền ảo và quên đi những lo toan vất vả của đời thường. Đây là điều kiện tốt
nhất, giúp cho du khách phục hồi lại sức khỏe tâm hồn một cách nhanh nhất
-
Khách sạn sinh thái giúp du khách hòa
mình với thiên nhiên, thân thiện với môi tường và hiểu hơn về cuộc sống của con
người nơi đó
Ø Nhiệm
vụ của khách sạn sinh thái:
-
Bảo tồn tài nguyên của môi trường tự
nhiên.
-
Bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm
của môi trường tự nhiên mà họ đang chiêm ngưỡng.
-
Thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng
địa phương, người dân bản địa trong việc quản lý và bảo vệ, phát triển du lịch
đang triển khai thực hiện trong điểm du lịch, khu du lịch v.v...
-
Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói trên,
mô hình khách sạn sinh thái vừa đảm bảo sự hài lòng đối với du khách ở mức độ
cao để tạo lập sự hấp dẫn đối với họ, đồng thời qua du khách quảng bá uy tín của
điểm du lịch, khu du lịch. Từ đó ngành kinh doanh khách sạn và ngành du lịch có
điều kiện bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch và cũng là cơ hội
tăng thu nhập cho người dân thông qua hoạt động du lịch, cũng tức là có điều kiện
thuận lợi về xã hội hoá thu nhập từ du lịch.
CHƯƠNG
II: TÌM HIỂU MÔ HÌNH KHÁCH SẠN SINH THÁI TRÊN THẾ GIỚI
1.
Mô
hình chung giữa khách sạn trên thế giới về cơ cấu và tổ chức
Hình
2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của khách sạn
Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban:
Ø Giám
đốc: quản lý và điều hành các hoạt động kinh doanh của khách sạn, đề ra và thực
hiện các chính sách và chiến lược của khách sạn. chịu trách nhiệm về toàn bộ kết
quả hoạt động của khách sạn, phối hợp công việc của các bộ phận
Ø Phó
giám đốc: có trách nhiệm xử lý hàng ngày các hoạt động của khách sạn, xử lý các
tình huống khẩn cấp và chịu trách nhiệm đối với các vấn đề phúc lợi và an toàn
nhân viên của khách sạn và của khách, chịu trách nhiệm với giám đốc về nhiệm vụ của mình.
Ø Bộ phận nhân sự: có
trách nhiệm trong việc tuyển dụng nhân viên (bao gồm cả việc
tuyển dụng và chọn lựa nhân sự trong và ngoài), cũng như các chương trình đào tạo,
định hướng, mối quan hệ giữa nhân viên, tiền lương, quan hệ lao động và phát
triển nguồn nhân lực
Ø Bộ
phận sales and marketing: có trách nhiệm khai thác và tìm nguồn khách mới. Bộ
phận này đóng vai trò thiết yếu trong khách sạn. Mục đích của bộ phận này là
thu hút nguồn khách bên ngoài đến với khách sạn, đồng thời giữ mối quan hệ đối
với những khách hàng trung thành của khách sạn. bên cạnh đó, bộ phận này còn
xác định mức giá bán và điều chỉnh giá cho phù hợp với diễn biến của thị trường,
với kế hoạch kinh doanh của khách sạn, xúc tiến quảng cáo kích thích người tiêu
thụ
Ø Bộ
phận buồng: Bộ phận phục vụ buồng chịu trách nhiệm làm vệ sinh hàng ngày hoặc
theo định kỳ buồng của khách lưu trú. Do vậy, bộ phận này chịu trách nhiệm làm
sạch các loại đồ vải (ga trải giường, gối, chăn, nệm, rèm cửa), lau chùi đồ đạc
trong phòng, làm vệ sinh thảm, trang trí phòng theo mô hình của khách sạn hoặc
theo yêu cầu của khách, chuẩn bị giường ngủ, chăn màn và cung cấp các dịch vụ bổ
sung cho khách. Ngoài ra, bộ phận buồng còn làm vệ sinh tại các khu vực công cộng
như: hành lang, tiền sảnh…. Trong mọi công việc của mình, mục đích của bộ phận
buồng là luôn duy trì các tiêu chuẩn phù hợp cùng với phương thức phục vụ buồng
hoàn hảo - điều này phản ánh qua sự hài lòng của khách. Vai trò của bộ phận buồng
vì vậy rất quan trọng có thể sánh ngang với bộ phận nhà bếp và nhà hàng. Xét về
số lượng nhân viên, bộ phận phục vụ buồng là một trong những phòng ban lớn nhất
của khách sạn
Ø
Bộ phận kinh doanh an uống: “chức năng chính
của bộ phận này là kinh doanh thức ăn đồ uống tại nhà hàng cho khách” ( Giáo
trình Quản trị kinh doanh khách sạn – trang 87). Đây
là một trong những bộ phận lớn và cũng là bộ phận quan trọng trong khách sạn. Bộ phận
này có đặc điểm sau:
+ Doanh
thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của toàn khách sạn.
+
Đảm bảo các dịch vụ ăn uống không chỉ thỏa mãn nhu cầu sinh lý mà
còn thỏa mãn nhu cầu tâm lý.
+
Chức năng của bộ phận này là phục vụ khách các món ăn, đồ uống
một cách tốt nhất theo đúng mong muốn của khách.
+
Mục tiêu quản lý đặt ra ở bộ phận này là tạo ra những món ăn ngon.
an toàn thực phẩm, giá cả hợp lý, phục vụ khách tận tình với thái
độ văn minh lịch sự và hiếu khách, tạo bầu không khí thoải mái, làm
cho khách thấy không chỉ ăn ngon, uống say mà còn cảm thấy dễ chịu như
ở nhà mình
Ø Bộ phận kỹ thuật: thực
hiện chức năng quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn, cung cấp các điều
kiện kỹ thuật cần thiết để khách sạn hoạt động bình thường và đảm bảo chất
lượng dịch vụ của khách sạn. Công việc chính là lập kế hoạch quản lý vận hành,
bảo dưỡng, sủa chữa, đổi mới các trang thiết bị điện dân dụng, điện tử, cấp
thoát nước, cơ khí, các phương tiện và đồ dùng, dụng cụ gia dụng của toàn bộ
khách sạn
Ø Bộ phận tài chính – kế
toán: tổ chức thực hiện chiến lược tài chính. Kiểm soát các chi phí hoạt động
của khách san, kế toán giá thành, kế toán vấn đề thu – chi, kiểm tra các hóa
đơn chi tiêu và mua hàng của khách
Ø Bộ phận lễ tân: Bộ phận
lễ tân là bộ phận đầu tiên và cũng là bộ phận cuối cùng tiếp xúc với khách,
được coi là bộ mặt của khách sạn đại diện cho khách sạn chào đón khách, đáp ứng
mọi nhu cầu của khách khi lưu lại và tiễn khách khi ra về. Hoạt động lễ tân giữ
vai trò quan trọng trong việc tạo dựng ấn tượng ban đầu của khách về khách sạn.
Thông qua lễ tân mà khách có thể đánh giá được chất lượng của khách sạn có tốt
hay không. Đồng thời cũng thông qua hoạt động lễ tân khách sạn biết được nhu
cầu của khách và kích thích nhu cầu của khách để khách sạn đi đến một chiến
lược kinh doanh thành công
2.
Một
số mô hình ví dụ
2.1.
Mô hình khách sạn sinh thái đầu
tiên trên thế giới – khách sạn POD ở Flims, Thụy Sĩ
POD là khách sạn sinh thái gồm ba túp
lều có hình tổ kén nằm ở thung lũng nhỏ vùng Flims, Thụy Sĩ. Chúng đem tới những
trải nghiệm thú vị cho du khách ghé thăm
Năm
2003, công ty Thụy sĩ "Robust Outdoor Brands" đã bắt tay vào xây dựng
các không gian du lịch vùng núi dành cho những người yêu thiên nhiên, và khám
phá những điều bí ẩn tuyệt vời mà thiên nhiên mang lại. Khách sạn POD xung
quanh được bao phủ bởi tuyết trắng. Khách sạn và lò sưởi cho mùa đông. Khách sạn
Pod được thiết kế phù hợp để đáp ứng thời tiết cho cả mùa đông và mùa hè với
các tiện nghi cần thiết. Khách sạn lung linh vào ban đêm
Với
chi phí phải chăng, du khách sẽ có cảm giác trải nghiệm thú vị khi đến khám phá
không gian sống ở khách sạn này. Dự án này có tham khảo đến mô hình đền thờ của
người Toda, một cộng đồng nhỏ chuyên sống bằng nghề chăn thả gia súc trên cao
nguyên Nilgiri ở miền nam Ấn Độ.
2.2.
Mô hình khách sạn sinh thái
Endemico – Mexico
Khách
sạn Endemico tọa lạc tại Valle de Guadalupe, Baja California, Mexico, rộng 94 ha
với cảnh quan thiên nhiên hoang dã. Vị trí nhà nghỉ trên cao biệt lập tạo cho
du khách một không gian nghỉ ngơi riêng tư để tận hưởng kỳ nghỉ tuyệt vời của
mình.
Khách
sạn Endemico được thiết kế bởi kiến trúc San Diego thuộc Studio
Gracia . Chỉ mất hơn một giờ đồng hồ để lái xe từ biên giới San Diego /
Tijuana đến khách sạn. Mỗi căn nhà gỗ nhỏ được dựng độc lập dọc theo sườn đồi dốc
và không gian bên trong mỗi căn nhà được thiết kế đơn giản mà sang trọng.
Khu
vực ẩn dật nhưng lãng mạn này nằm ở Valle de Guadalupe, Baja California, Mexico
và chỉ mất khoảng 1 giờ chạy xe từ biên giới San Diego/Tijuana. Được thiết kế bởi
công ty Gracia Studio ở San Diego, mỗi buồng trong số 20 buồng nghĩ là một tổ hợp
riêng biệt được đặt bên sườn đồi với các tiện nghi sang trọng bậc nhất.
Các
buồng rộng 20m2 được lắp trên những trụ thép, và kích thước nhỏ gọn của chúng
không khiến người ta không thể phát hiện từ xa trong một khung cảnh thiên nhiên
bao la như vậy. Vị trí đắc địa của Hotel Endemico đảm bảo sự riêng tư tối đa và
khách sẽ rất thích cảm giác bị “bỏ rơi” ngoài thiên nhiên. Mỗi buồng có một chiếc
giường cỡ lớn, bếp nấu, một sân trời riêng biệt với một lò sưởi bằng đất sét
Mexico và các tiện nghi khác.
Ý
tưởng cho khu nghỉ dưỡng này là để tạo ra nơi ở đơn giản nhưng tôn trọng môi
trường xung quanh, và đưa ra cho khách những nhu cầu cơ bản để sinh hoạt trong
các ngày cuối tuần giữa thiên nhiên. Khách có thể đi thăm những vườn nho ngay kề
bên, tắm trong bể bơi bên sườn đồi hoặc đơn giản thưởng thức ly vang trên sân
thượng trong khi ngắm mặt trời lặn bên kia rặng núi.
2.3.
Mô hình khách sạn sinh thái
Intercontinental/ WOHA tại đảo Hải Nam, Trung Quốc
Intercontinental Resort nằm tại đảo Hải Nam, Trung
Quốc, là khách sạn hiện đại với 350 phòng. Thiết kế mang trong mình vẻ tinh tế
đến từng đường nét với cấu trúc chủ yếu sử dụng vật liệu đá tự nhiên với phong
cách thiết kế hiện đại, tươi sáng, tận dụng yếu tố thủ công và công nghệ nguyên
vật liệu của Trung Quốc, kiến trúc và nội thất tích hợp ngôn ngữ Á Châu đương đại
Một phần ba số phòng được sắp đặt trong khối công
trình cong tuyến tính gồm 10 tầng, khối này có vai trò là điểm nhấn ngay sát với
lối vào chính của khách sạn. Tất cả các phòng đều có view hướng biển và phía
hành lang mở thông thoáng để có thể tận dụng gió tự nhiên từ các ngọn núi xung
quanh. Ngoài ra mỗi phòng đều có phòng tắm thiết kế mở và ban công khá lớn. Khu
còn lại gồm 2/3 số phòng được đặt ở khoảng phía trước (hướng ra biển) và là khu
thoải mái nhất (theo cảm nhận của những du khách tới đây). Mỗi phòng đều có một
phòng tắm lộ thiên, đặt trong một khu vườn lớn.
Thiết kế là sự kết hợp các giải pháp quy hoạch tổng
thể kiến trúc cảnh quan, công trình, nội thất làm tăng giá trị sinh thái của
khu nghỉ dưỡng ven biển. Ngay từ chi tiết nhỏ nhất như tầm quan sát đóng khung
thị giác với cây dừa, phản ảnh xuống nước, sau đó định hình lại với vật liệu gỗ,
đá, vải…mang lại cảm giác thân quen mà đặc biệt. Thiết kế năng động với nhiều
loại phòng, làm tăng thêm bề rộng thị trường và đối tượng khách hàng.
Khu nghỉ mát được thiết kế như lột tả mối liên hệ của
thiên nhiên và con người, khu sân vườn có tường bao quanh lối đi từ phòng khách
dẫn đến các khu vườn lan trong các spa, mỗi không gian dẫn tới một khu vườn
khác biệt, điều này cho thấy sự đa dạng sinh thái trong chiến lược thiết kế nhiệt
đới của Sanya.
Ngay cả trên mái công trình cũng được xử lí như khu
vườn, vì vậy xung quanh khối cao tầng nhìn xuống dường như chỉ thấy một khu vườn
không lồ làm không gian đệm trước khung cảnh biển. Cấu trúc hình học của những
mái nhà và khu vườn lấy các hứng từ những ruộng lúa của Sanya
Khách sạn được thiết với các nguyên tắc bền vững. Với
các yếu tố thụ động, tiết kiệm năng lượng (tận dụng ánh sáng tự nhiên, thông
gió chéo, vườn trên mái,…), sử dụng bảo tồn cảnh quan bản địa, vật liệu tái chế…
0 nhận xét:
Đăng nhận xét