1.1
.
Sự hình thành và phát triển của logistics
Giai
đoạn 1: Phân phối vật chất
Tất cả các công
ty đều có hoạt động vận chuyển vào trong công ty (inbound logistics) và vận
chuyển ra ngoài công ty (outbound logistics). Vào những năm 60, 70 của thế kỉ
XX, người ta quan tâm nhiều đến “outbound logistics”. Đó là một chuỗi các hoạt
động có mỗi liên hệ chặt chẽ với nhau trong đó bao gồm các hoạt động vận tải
nhằm đảm bảo việc giao hàng thành phẩm một các hiệu quả cho khách hàng. Những
hoạt động này bao gồm: vận tải , phân phối bảo quảm hàng hóa , quảm lý tồn kho,
đóng gói bao bì, phân loại, dán nhãn… hay còn gọi là phân phối vật chất. Như
vậy ở giai đoạn đầu tiên logistics chính là giai đoạn phát triển của “Outbound
Logistics”.
Gia
đoạn 2: Hệ thống logistics
Đến
những năm 80 sự quan tâm lại chuyển hướng san “Inbound Logistics”. Inbound
Logistics chỉ giới hạn trong quản lý nguyên vật liệu cũng như quản lý nguồn lực
của doanh nghiệp, do đó còn gọi là logistics đầu vào. Có hai loại hình vận tải
trong Inbound logistics là vận chuyển nguyên vật liệu mua từ các nhà cung cấp
bên ngoài công ty, và vận chuyển nguyên vật liệu, các bộ phận của sản phẩm giữa
các chi nhánh trong công ty. Do đó có có thể lý giải hai nguyên nhân dẫn đến sự
chuyển hướng này. Giá nhiên liệu tăng khiến chi phí vận tải tăng. Và người ta
thấy rằng một cách giúp kiểm soát tốt chi ohis vận tải chính là tăng hiệu quả
sử dụng các phương tiện vận tải, bằng cách kết hợp giữa “Inbound logistics” và
“Outbound Logistics” .Sự phát triển của khoa học quản lý, dẫn đến sự ra đời của
phương pháp lập kế hoạch về nhu cầu nguyên vật liệu và sự phổ biên của hệ thống
Kanban và JIT (Just in time). “Inbound logistics” quản lý các hệ thông này, nhờ
đó giảm chi phí sản xuất kinh doanh cho công ty thông qua giảm chi phsi dự trữ
lưu kho.
Như
vậy đến những năm 80 90 của thế kỷ XX, các công ty đã tiến hành quản lý kết hợp
cả hai hoạt động “Inbound Logistics” và “Outbound logistics”. Đó chính là giai
đoạn phát triển mới của logistics: Logistics hệ thống
Giai
đoạn 3: Quản trị dây chuyền cung ứng (Supply chain management – SCM)
Cùng
với “Inbound logistics” và “outbound logistics” người ta còn quan tâm đến
“Operation logistics” là một bộ phận của hoạt động điều hành trong công ty liên
quan đến việc lập hệ thống theo dõi, kiểm tra sản phẩm và lập các chứng từ liên
quan nhằm tăng thêm giá trị cho sản phẩm. Sự kết hợp của 3 hoạt động này hình
thành nên một dây chuyền cung ugnws bao trùm mọi hoạt động từ nhà cung cấp đến
nhà sảm xuất và cuối cùng là đến khách hàng tiêu dùng sản phẩm, với mực đích
cao nhất là thỏa mãn tối da nhu cầu khách hàng.
Song
song với quá trình phát triển của logistics là quá trình phát triển của những
nhà cung cấp dịch vụ logistics. Xuất phát ban đầu đó là những “ người giao
nhân” chính là những người kinh doanh dịch vụ giao nhận. Cùng với sự phát triển
của dịch vụ giao nhận , vai trò của người gia nhận cũng được mở rộng ra rất
nhiều. Cho đến khi logistics được hình thành và phát triển với tính chất ngày
càng phức tạp thì dẫn đến sự ra đời của một loại hình công ty là “ công ty
Logistics” Những dịch vụ mà công ty mà công ty logistics cung cấp là dịch vụ
trọn gói về toàn bộ quá trình vận tải và phân phối hàng hóa trong suốt lộ trình
của hàng hóa từ người bán đến người mua. Lộ trình này có thể tóm tắt như sau:
1-
Người bán
2-
Giao hàng cho người chuyên chở
3-
Chuyển hàng vào trạm giao nhận đóng gói
hàng lẻ
4-
Lưu kho tại bãi container
5-
Đưa hàng hóa qua lan can tàu từ móc cẩu
6-
Chất xếp hàng háo trên boong tàu
7-
Dỡ hàng trong lan can tàu
8-
Lưu kho ở bãi container
9-
Khai báo hải quan
10-
Đưa hàng vào trạm đóng gói hàng lẻ
11-
Giao cho người mua
Như
vậy, hoạt động logistics ngày nay rất phát triển và đã trở thành một ngành công
nghiệp lớn.
1.3.
Đặc điểm của hoạt động logistics
Các chuyên gia nghiên cứu về dịch vụ
logistics đã rút ra một số đặc điểm cơ bản của ngành dịch vụ này như sau:
* Logistics là tổng hợp các hoạt động
của doanh nghiệp trên 3 khía cạnh chính, đó là logistics sinh tồn, logistics
hoạt động và logistics hệ thống
- Logistics sinh tồn có liên quan tới
các nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Logistics sinh tồn đúng như tên gọi của nói
xuất phát từ bản năng sinh tồn của con người, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của
con người: cần gì, cần bao nhiêu, khi nào cần và cần ở đâu. Logistics sinh tồn
là bản chất và nền tảng của hoạt động logistics nói chung;
- Logistics hoạt động là bước phát
triển mới của logistics sinh tồn và gắn với toàn bộ quá trình và hệ thống sản
xuất các sản phẩm của doanh nghiệp. Logistics hoạt động liên quan tới quá trình
vận động và lưu kho của nguyên liệu đầu vào vào trong, đi qua và đi ra khỏi
doanh nghiệp, thâm nhập vào các kênh phân phối trước khi đi đến tay người tiêu
dùng cuối cùng;
- Logistics hệ thống giúp ích cho
việc duy trì hệ thống hoạt động. Các yếu tố của logistics hệ thống bao gồm các
máy móc thiết bị, nguồn nhân lực, công nghệ, cơ sở hạ tầng nhà xưởng, … Logistics
sinh tồn, hoạt động và hệ thống có mối liên hệ chặt chẽ, tạo cơ sở hình thành
hệ thống logistics hoàn chỉnh.
* Logistics hỗ trợ hoạt động của các
doanh nghiệp: Logistics hỗ trợ toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp,
ngay cả khi sản phẩm đã ra khỏi dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp và đến tay
người tiêu dùng. Một doanh nghiệp có thể kết hợp bất cứ yếu tố nào của
logistics với nhau hay tất cả các yếu tố logistics tùy theo yêu cầu của doanh
nghiệp mình. Logistics còn hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp thông qua quản lý
di chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu đi vào doanh nghiệp và bán thành phẩm di
chuyển trong doanh nghiệp.
* Logistics là sự phát triển cao, hoàn
chỉnh của dịch vụ vận tải giao nhận, vận tải giao nhận gắn liền và nằm trong
logistics. Cùng với quá trình phát triển của mình, logistics đã làm đa dạng
khóa khái niệm vận tải giao nhận truyền thống. Từ chỗ chỉ thay mặt khách hàng
để thực hiện các khâu rời rạc như thuê tàu, lưu cước, chuẩn bị hàng, đóng gói
hàng, tái chế, làm thủ tục thông quan, … cho tới cung cấp dịch vụ trọn gói từ
kho đến kho (Door to Door). Từ chỗ đóng vai trò đại lý, người được ủy thác trở
thành một chủ thể chính trong các hoạt động vận tải giao nhận với khách hàng,
chịu trách nhiệm trước các nguồn luật điều chỉnh. Ngày nay, để có thể thực hiện
nghiệp vụ của mình, người giao nhận phải quản lý một hệ thống đồng bộ từ giao
nhận tới vận tải, cung ứng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo
quản hàng hóa trong kho, phân phối hàng hóa đúng nơi, đúng lúc, sử dụng thông
tin điện tử để theo dõi, kiểm tra, … Như vậy, người giao nhận vận tải trở thành
người cung cấp dịch vụ logistics.
* Logistics là sự phát triển hoàn
thiện dịch vụ vận tải đa phương thức:
Trước đây, hàng hóa đi theo hình thức
hàng lẻ từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu và trải qua nhiều phương tiện vận
tải khác nhau, vì vậy xác suất rủi ro mất mát đối với hàng hóa là rất cao, và
người gửi hàng phải ký nhiều hợp đồng với nhiều người vận tải khác nhau mà
trách nhiệm của họ chỉ giới hạn trong chặng đường hay dịch vụ mà họ đảm nhiệm.
Tới những năm 60-70 của thế kỷ XX, cách mạng container trong ngành vận tải đã
đảm bảo an toàn và độ tin cậy trong vận chuyển hàng hóa, là tiền đề và cơ sở
cho sự ra đời và phát triển vận tải đa phương thức. Khi vận tải đa phương thức
ra đời, chủ hàng chỉ phải ký một hợp đồng duy nhất với người kinh doanh vận tải
đa phương thức (MTO-Multimodal Transport Operator). MTO sẽ chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện toàn bộ việc vận chuyển hàng hóa từ khi nhận hàng cho tới khi
giao hàng bằng một chứng từ vận tải duy nhất cho dù anh ta không phải là người
chuyên chở thực tế. Như vậy, MTO ở đây chính là người cung cấp dịch vụ
logistics.
1.4
. Vai trò của logistics
![]() |
1.4.1 Đối với nền kinh tế
Logistics là một trong những khoản
chi phí lớn cho kinh doanh, do vậy nó tác động và chịu tác động bởi các hoạt
động kinh tế khác
Logistics
tạo ra giá trị gia tăng bằng cách tạo ra “các tiện ích”. Theo quản điểm kinh
tế, việc sử dụng thể hiện giá trị và sự hữu ích của một mặt hàng hay dịch vụ
nào đó trong việc đáp ứng một yêu cầu nào đó của người sử dụng. Logistics đưa
lại 4 lợi ích:
-
Tiện ích về hình dáng, mẫu mã (form
untility)
-
Tiện ích về sở hữu (Possession untility)
-
Tiện ích về thời gian (Time untility)
-
Tiện ích về địa điểm (Place untility)
Form
untility và Possession untility không liên quan cụ thể tới logistics, nhưng
không thể đạt được hai loại tiện ích này nếu không có được đúng loại sản phẩm
cần thiết cho tiêu dùng hay sản xuất tại đúng địa điểm vào đúng thời gian với
đúng điều kiện và đúng giá cả, đó là “5 chữ đúng” của logistics, là cốt lõi của
2 loại tiện ích do logistics trực tiếp mang lại là: tiện ích thời gian và tiện
ích địa điểm.
Tiện ích thời gian: là giá trụ tăng
khi có được một sản phẩm nào đó vào đúng lúc nó cần, Time untility có thể xảy
ra ngay trong một đơn vị, cũng có thể xảy ra trên thị trường. Một sản phẩm
chẳng giúp ích cho người nào đó khi người đó không có được sản phẩm đó vào đúng
lúc người đó cần nó.
Nếu không có tiện ích thời gian và
tiện ích địa điểm do logistics mang lại sẽ không thỏa mãn được yêu cẩu của
khách hàng.
Như vậy nếu hàng hóa, dịch vụ bị ách
tắc ở khâu nào đó trong sản xuất, trong lưu thông ở một nơi nào đó vào một thời
điểm nào đó mà không đạt được “5 chữ đúng” trong logistics đều gây thiệt hại
cho hoạt động logistics nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.
Mỗi hoạt động trong chuỗi logistics
đều có một vị trí và chiếm một khoản chi phí nhất định. Vì vậy , nếu nâng cao
hiệu quả hoạt động logistics thì sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả kinh
tế - xã hội.
Logistics
hỗ trợ cho luồng chu chuyển các giao dịch kinh tế. Nền kinh tế chỉ có thể phát
triển nhịp nhàng , đồng bộ một khi dây chuyền logistics hoạt động liên tục vào
nhịp nhàng.
1.4.2 Đối
với các doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp, logistics có vai trò rất to
lớn. Logistics giúp giải quyết cả đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách
hiệu quả. Nhờ có thể thay đổi các nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá
trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ, ... logistics giúp giảm
chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Có nhiều doanh nghiệp thành
công lớn nhờ có được chiến lược và hoạt động đúng đắn, ngược lại có không ít
doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí thất bại, phá sản do có những quyết định
sai lầm trong hoạt động logistics, ví dụ: chọn sai vị trí, chọn nguồn tài
nguyên cung cấp sai, dự trữ không phù hợp, tổ chức vận chuyển không hiệu quả.
Logistics góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giảm
thiểu chi phí nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
chủ động trong việc chọn nguồn cung cấp nguyên liệu, công nghệ sản xuất, thiết
kế mẫu mã, tìm kiếm thị trường tiêu thụ thông qua nhiều kênh phân phối khác
nhau…; chủ động trong việc lên kế hoạch sản xuất, sản xuất hàng tồn kho và giao
hàng theo đúng thời gian với tổng chi phí thấp nhất.
Logistics còn góp phần giảm chi phí thông qua việc
tiêu chuẩn hóa chứng từ. Giấy tờ rườm rà chiếm một khoản chi phí không nhỏ
trong mậu dịch quốc tế và vận chuyển. Thông qua dịch vụ Logistics, các công ty
Logistics sẽ đứng ra đảm nhiệm việc ký một hợp đồng duy nhất sử dụng chung cho
mọi loại hình vận tài để đưa hàng từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng cuối cùng.
Logistics được xem là công cụ hiệu quả để đạt được lợi
thế cạnh tranh lâu dài về sự khác biệt hóa và tập trung.

1.5
.
Phân loại logicstics.
* Phân loại theo hình thức
-
Logistics bên thứ nhất: chủ sở hữu hàng hóa tự mình tổ chức và thực hiện các
hoạt động logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân, theo đó chủ hàng phải đầu
tư vào phương tiện vận tỉa, kho bãi, nhân công, … để quản lý và vận hành hoạt động
logistics
-
Logistics bên thứ hai: Người cung cấp dịch vụ logistics bên thứ 2 sẽ cung cấp
dịch vụ cho các hoạt động đơn lẻ trong dây chuyền logistics như vận tải, lưu
kho bãi, thanh toán , mua bảo hiểm, …
trong hình thức này chủa tích hợp các hoạt động đơn lẻ thành chuỗi cung ứng
đồng nhất.
-
Logistics bên thứ ba (3PL – third party logistics ) : Người cung cấp dịch vụ sẽ
thay mặt chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics cho từng bộ phận.
3PL bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, luwu
trữ hàng hóa, xử lý thông tin, … và có tính tích hợp vào dây chuyền cung ứng
của khách hàng.
-
Logistics bên thứ tư (4PL – Fourth party logistics): Người cung cấp dịch vụ là
người tích hợp gắn kết các nguồn lực, tiềm năng và cơ sở vật chất khoa học kỹ
thuật của mình với các tổ chức khác để thiết kế, xây dựng và vận hành các giải
pháp cuỗi logistics, 4PL hướng đến quản lý cả quá trình logistics.
-
Logistics bên thứ năm (5PL – Fith party logistics): được nói tới trong lĩnh vực
thương mại điện tử, các nhà cũng cấp duchj vụ logistics cung cấp dịch vụ trên
cơ sở nền tảng là thương mại điện tử.
*Theo quá trình
-
Logistics đầu vào ( inbound logistics): là các dịch vụ đảm bảo cung ứng các yếu
tố đầu vào một cách tối ưu cả về vị trí, thời gian và chi phí cho quá trình sản
xuất.
-
Logistics đầu ra (outbound logistics): là các dịch vụ cung cấp đảm bảo thành
phẩm đến tay người tiêu dùng một cách tối ưu cả về vị trí, thời gian và chi phí
nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
-
Logistics ngược ( reverse logistics): là các dịch vụ được cung cấp đảm bảo quá
trình thu hồi phế phẩm, phế liệu, … các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường phát
sinh từ quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng trở về để tái chế hoặc xử
lý.
1.6
.
Tác dụng của logistics
·
Dịch vụ logistics góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh
tranh cho các doanh nghiệp
Theo
thống kê của một số tổ chức nghiên cứu về logistics cũng như Viện nghiên cứu
logistics của Mỹ cho biết, chi phí cho hoạt động logistics chiếm tới khoảng
10-13% GDP ở các nước phát triển, con số này ở các nước đang phát triển thì cao
hơn khoảng 15-20%. Theo thống kê của một nghiên cứu, hoạt động logistics trên
thị trường Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ bình quân là 33%/1 năm và ở Brazil
là 20%/1 năm. Điều này cho thấy chi phí cho logistics là rất lớn. Vì vậy với
việc hình thành và phát triển dịch vụ logistics là rất lớn. Vì vậy, với việc
hình thành và phát triển dịch vụ logistics sẽ giúp các doanh nghiệp cũng như toàn
bộ nền kinh tế quốc dân giảm được chi phí trong chuỗi logistics, làm cho quá
trình sản xuất kinh doanh tinh giản hơn và đạt hiệu quả hơn. Giảm chi phí trong
sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh tinh giản, hiệu quả sản xuất kinh doanh
được nâng cao góp phần tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Thực tế những năm qua tại các nước Châu Âu, chi phí logistics đã giảm xuống rất
nhiều và còn có xu hướng giảm nữa trong các năm tới.
·
Dịch vụ logistics có tác dụng tiết kiệm
và giảm chi phí trong hoạt động lưu thông phân phối
Giá
cả hàng hóa trên thị trường chính bằng giá cả ở nơi sản xuất cộng với chi phí
lưu thông. Chi phí lưu thông hàng hóa, chủ yếu là phí vận tải chiếm một tỷ lệ
không nhỏ và là bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa trên thị trường, đặc biệt là
hàng hóa trong buôn bán quốc tế. Vận tải là yếu tố quan trọng của lưu thông. C.
Mác đã từng nói “Lưu thông có ý nghĩa là hành trình thực tế của hàng hóa trong
không gian được giải quyết bằng vận tải”. Vận tải có nhiệm vụ đưa hàng hóa đến
nơi tiêu dùng và tạo khả năng để thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng
hóa. Trong buôn bán quốc tế, chi phí vận tải chiếm tỷ trọng khá lớn, theo số
liệu thống kê của UNCTAD thì chi phí vận tải đường biển chiếm trung bình 10-15%
giá FOB, hay 8-9% giá CIF. Mà vận tải là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống
logistics cho nên dịch vụ logistics ngày càng hoàn thiện và hiện đại sẽ tiết
kiệm cho phí vận tải và các chi phí khác phát sinh trong quá trình lưu thông
dẫn đến tiết kiệm và giảm chi phí lưu thông. Nếu tính cả chi phí vận tải, tổng
chi phí logistics (bao gồm đóng gói, lưu kho, vận tải, quản lý, …) ước tính
chiếm tới 20% tổng chi phí sản xuất ở các nước phát triển, trong khi đó nếu chỉ
tính riêng chi phí vận tải có thể chiếm tới 40% giá trị xuất khẩu của một số
nước không có đường bờ biển.
·
Dịch vụ logistics góp phần gia tăng giá
trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải giao nhận
Dịch
vụ logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và phức tạp hơn nhiều so
với hoạt động vận tải giao nhận thuần túy. Trước kia, người kinh doanh dịch vụ
vận tải giao nhận chỉ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đơn giản, thuần túy
và đơn lẻ. Ngày nay, do sự phát triển của sản xuất, lưu thông, các chi tiết của
một sản phẩm có thể do nhiều quốc gia cung ứng và ngược lại một loại sản phẩm
của doanh nghiệp có thể tiêu thụ tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường khác
nhau, vì vậy dịch vụ mà khách hàng yêu cầu từ người kinh doanh vận tải giao
nhận phải đa dạng và phong phú. Người vận tải giao nhận ngày nay đã triển khai
cung cấp các dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế của khách hàng. Họ trở thành
người cung cấp dịch vụ logistics (logistics service provider). Rõ ràng, dịch vụ
logistics đã góp phần làm gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận
tải giao nhận.
Theo
kinh nghiệm ở những nước phát triển cho thấy, thông qua việc sử dụng dịch vụ
logistics trọn gói, các doanh nghiệp sản xuất có thể rút ngắn thời gian từ lúc
nhận đơn hàng cho đến lúc giao sản phẩm cho khách hàng từ 5-6 tháng xuống còn 2
tháng. Kinh doanh dịch vụ này có tỷ suất lợi nhuận cao gấp 3-4 lần sản xuất và
gấp từ 1-2 lần các dịch vụ ngoại thương khác.
·
Logistics phát triển góp phần mở rộng
thị trường trong buôn bán quốc tế.
Sản
xuất có mục đích là phục vụ tiêu dùng, cho nên trong sản xuất kinh doanh, vấn đề
thị trường luôn là vấn đề quan trọng và luôn được các nhà sản xuất và kinh
doanh quan tâm. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh và mở rộng thị
trường cho sản phẩm của mình phải cần sự hỗ trợ của dịch vụ logistics. Dịch vụ
logistics có tác dụng như chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch hàng hóa trên
các tuyến đường mới đến các thị trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa
điểm đặt ra. Dịch vụ logistics phát triển có tác dụng rất lớn trong việc khai
thác và mở rộng thị trường kinh doanh cho các doanh nghiệp.
·
Dịch vụ logistics phát triển góp phần
giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế
Thực
tiễn, một giao dịch trong buôn bán quốc tế thường phải tiêu tốn các loại giấy
tờ, chứng từ. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, chi phí về giấy tờ để phục vụ
mọi mặt giao dịch thương mại trên thế giới hàng năm đã vượt quá 420 tỷ USD.
Theo tính toán của các chuyên gia, riêng các loại giấy tờ, chứng từ rườm rà
hàng năm khoản chi phí tiêu tốn cho nó cũng chiếm tới hơn 10% kim ngạch mậu
dịch quốc tế, ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động buôn bán quốc tế. Logistics
đã cung cấp các dịch vụ đa dạng trọn gói đã có tác dụng giảm rất nhiều các chi
phí cho giấy tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế. Dịch vụ vận tải đa phương
thức do người kinh doanh dịch vụ logistics cung cấp đã loại bỏ đi rất nhiều chi
phí cho giấy tờ thủ tục, nâng cấp và chuẩn hóa chứng từ cũng như giảm khối
lượng công việc văn phòng trong lưu thông hàng hóa, từ đó nâng cao hiệu quả
buôn bán quốc tế.
Ngoài
ra, cùng với việc phát triển logistics điện tử (electronic logistics) sẽ tạo ra
cuộc cách mạng trong dịch vụ vận tải và logistics, chi phí cho giấy tờ, chứng
từ trong lưu thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ
logistics ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa cản trở về mặt không gian
và thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa. Các quốc gia sẽ
xích lại gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông.
1.7. Các chứng từ liên quan tới
hoạt động Logistic
1.7.1. Các chứng từ sử dụng đối với
hàng xuất khẩu.
Khi
xuất khẩu hàng hoá bằng đường biển, người giao nhận (NGN) được uỷ thác của
người gửi hàng lo liệu cho hàng hoá từ khi thông quan cho đến khi hàng được xếp
lên tầu. Các chứng từ sử dụng trong quá trình này cụ thể như sau:
-
Chứng từ hải quan
-
Chứng từ với cảng và tầu
-
Chứng từ khác
1.7.1.1 Chứng từ hải quan:
- 01 bản chính văn bản cho
phép xuất khẩu của bộ thương mại hoặc bộ quản lý chuyên ngành (đối với hàng
xuất khẩu có điều kiện) để đối chiếu với bản sao phải nộp.
- 02 bản chính tờ khai hải
quan hàng xuất khẩu
- 01 bản sao hợp đồng mua
bán ngoại thương hoặc giấy tờ có giá trị tương đương như hợp đồng
- 01 bản giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp (chỉ nộp một
lần khi đăng ký làm thủ tục cho lô hàng đầu tiên tại mỗi điểm làm thủ tục hải
quan).
- 02 bản chính bản kê chi
tiết hàng hoá (đối với hàng không đồng nhất)
ü Tờ khai hải quan
Tờ khai hải quan là một văn
bản do chủ hàng, chủ phương tiện khai báo xuất trình cho cơ quan hải quan trước
khi hàng hoặc phương tiện xuất hoặc nhập qua lãnh thổ quốc gia.
Thông lệ quốc tế cũng như
pháp luật Việt nam quy định việc khai báo hải quan là việc làm bắt buộc đối với
phương tiện xuất hoặc nhập qua cửa khẩu quốc gia. Mọi hành vi vi phạm như không
khai báo hoặc khai báo không trung thực đều bị cơ quan hải quan xử lý theo luật
pháp hiện hành.
ü Hợp đồng mua bán ngoại
thương
Hợp đồng mua bán ngoại
thương là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước
khác nhau, theo đó bên xuất khẩu có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên
nhập khẩu một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên nhập khẩu có nghĩa vụ nhận
hàng và trả tiền hàng.
ü Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp
Trước đây doanh nghiệp XNK
phải nộp giấy phép kinh doanh XNK loại 7 chữ số do Bộ Thương mại cấp. Hiện giờ
tất cả các doanh gnhiệp hội đủ một số điều kiện (về pháp lý, về vốn….) là có
quyền xuất nhập khẩu trực tiếp.
ü Bản kê chi tiết hàng hoá
(cargo list)
Bản kê chi tiết hàng hoá là
chứng từ về chi tiết hàng hoá trong kiện hàng. Nó tạo điều kiện thuận tiện cho
việc kiểm tra hàng hoá. Ngoài ra nó có tác dụng bổ sung cho hoá đơn khi lô hàng
bao gồm nhiều loại hàng có tên gọi khác nhau và phẩm cấp khác nhau.
1.7.1.2 Chứng từ với cảng và tầu
Ðược sự uỷ thác của chủ
hàng. NGN liên hệ với cảng và tầu để lo liệu cho hàng hóa được xếp lên tâù. Các
chứng từ được sử dụng trong giai đoạn này gồm:
- Chỉ thị xếp hàng (shipping
note)
- Biên lai thuyền phó
(Mate’s receipt)
- Vận đơn đường biển (Ocean
Bill of Lading)
- Bản lược khai hàng hoá
(Cargo Manifest)
- Phiếu kiểm đếm (Dock sheet
& Tally sheet)
- Sơ đồ xếp hàng (Ship’s
stowage plan)
ü Chỉ thị xếp hàng:
Ðây là chỉ thị của người gửi
hàng cho công ty vận tải và cơ quan quản lý cảng, công ty xếp dỡ, cung cấp
những chi tiết đầy đủ về hàng hoá được gửi đến cảng để xếp lên tầu và những chỉ
dẫn cần thiết,
ü Biên lai thuyền phó
Biên lai thuyền phó là chứng
từ do thuyền phó phụ trách về gửi hàng cấp cho người gửi hàng hay chủ hàng xác
nhận tầu đã nhận xong hàng. Việc cấp biên lai thuyền phó là một sự thừa nhận
rằng hàng đã được xếp xuống tầu, đã được xử lý một cách thích hợp và cẩn thận.
Do đó trong quá trình nhận hàng người vận tải nếu thấy tình trạng bao bì không
chắc chắn thì phải ghi chú vào biên lai thuyền phó.
Dựa trên cơ sở biên lai
thuyền phó, thuyền trưởng sẽ ký phát vận đơn đường biển là tầu đã nhận hàng để
chuyên chở
ü Vận đơn đường biển
Vận đơn đường biển là một
chứng từ vận tải hàng hoá bằng đường biển do người chuyên chở hoặc đạI diện của
họ cấp cho người gửi hàng sau khi đã xếp hàng lên tầu hoặc sau khi đã nhận hàng
để xếp.
Vận đơn đường biển là một
chứng từ vận tải rất quan trọng, cơ bản về hoạt động nghiệp vụ giữa người gửi
hàng vvới người vận tải, giữa người gửi hàng với người nhận hàng. Nó có tác
dụng như là một bằng chứng về giao dịch hàng hoá, là bằng chứng có hợp đồng
chuyên chở
ü Bản khai lược hàng hoá
Ðây là bản lược kê các loại
hàng xếp trên tầu đẻ vận chuyển đến các cảng khác nhau do đại lý tại cảng xếp
hàng căn cứ vào vận đơn lập nên
Bản lược khai phải chuẩn bị
xong ngày sau khi xếp hàng, cũng có thể lập khi đang chuẩn bị ký vận đơn, dù
sao cũng phải lập xong và ký trước khi làm thủ tục cho tầu rời cảng.
Bản lược khai cung cấp số
liệu thông kê về xuất khẩu cũng như nhập khẩu và là cơ sở để công ty vận tải
(tầu) dùng để đối chiếu lúc dỡ hàng
ü Phiếu kiểm đếm
Dock sheet là một loại phiếu
kiểm đếm tại cầu tầu trên đó ghi số lượng hàng hoá đã được giao nhận tại cầu
Tally sheet là phiếu kiểm
đếm hàng hoá đã xếp lên tầu do nhân viên kiểm đếm chịu trách nhiệm ghi chép
Công việc kiểm đếm tại tầu
tuỳ theo quy định của từng cảng còn có một số chứng từ khác như phiếu ghi số
lượng hàng, báo cáo hàng ngày….
Phiếu kiểm đếm là một chứng
từ gốc về số lượng hàng hoá được xếp lên tầu. Do đó bản sao của phiếu kiểm đếm
phải giao cho thuyền phó phụ trách về hàng hoá một bản để lưu giữ, nó còn cần
thiết cho những khiếu nại tổn thất về hàng hoá sau này.
ü Sơ đồ xếp hàng
Ðây chính là bản vẽ vị trí
sắp xếp hàng trên tầu. Nó có thể dùng các màu khác nhau đánh dấu hàng của từng
cảng khác nhau để dễ theo dõi, kiểm tra khi dỡ hàng lên xuống các cảng.
Khi nhận được bản đăng ký
hàng chuyên chở do chủ hàng gửi tới, thuyền trưởng cùng nhân viên điều độ sẽ
lập sơ đồ xếp hàng mục đích nhằm sử dụng một cách hợp lý các khoang, hầm chứa
hàng trên tầu cân bằng trong quá trình vận chuyển.
1.7.1.3 Chứng từ khác
Ngoài các chứng từ xuất
trình hải quan và giao dịch với cảng, tầu, NGN được sự uỷ thác của chủ hàng lập
hoặc giúp chủ hàng lập những chứng từ về hàng hoá, chứng từ về bảo hiểm, chứng
từ về thanh toán… Trong đó có thể đề cập đến một số chứng từ chủ yếu sau:
- Giấy chứng nhận xuất xứ
(Certificate of origin)
- Hoá đơn thương mại
(Commercial invoice)
- Phiếu đóng gói (Packing
list)
- Giấy chứng nhận số
lương/trọng lượng (Certificate of quantity/weight)
- Chứng từ bảo hiểm
ü Giấy chứng nhận xuất xứ
Giấy chứng nhận xuất xứ là
một chứng từ ghi nơi sản xuất hàng do người xuất khẩu kê khai, ký và được người
của cơ quan có thẩm quyền của nước người xuất khẩu xác nhận.
Chứng từ này cần thiết cho
cơ quan hải quan để tuỳ theo chính sách của Nhà nước vận dụng các chế độ ưu đãi
khi tính thuế. Nó cũng cần thiết cho việc theo dõi thực hiện chế độ hạn ngạch.
Ðồng thời trong chừng mực nhất định, nó nói lên phẩm chất của hàng hoá bởi vì
đặc điểm địa phương và điều kiện sản xuất có ảnh hưởng tới chất lượng hàng hoá.
ü Hoá đơn thương mại
Sau khi giao hàng xuất khẩu,
người xuất khẩu phải chuẩn bị một hoá đơn thương mại. Ðó là yêu cầu của người
bán đòi hỏi người mua phải trả số tiền hàng đã được ghi trên hoá đơn.
ü Phiếu đóng gói
Phiếu đóng gói là bảng kê
khai tất cả các hàng hoá đựng trong một kiện hàng. Phiếu đóng gói được sử dụng
để mô tả cách đóng gói hàng hoá ví dụ như kiện hàng được chia ra làm bao nhiêu
gói, loại bao gói được sử dụng, trọng lượng của bao gói, kích cỡ bao gói, các
dấu hiệu có thể có trên bao gói… Phiếu đóng gói được đặt trong bao bì sao cho
người mua có thể dễ dàng tìm thấy, cũng có khi để trong một túi gắn bên ngoài
bao bì.
ü Giấy chứng nhận số
lượng/trọng lượng
Ðây là một chứng thư mà
người xuất khẩu lập ra, cấp cho người nhập khẩu nhằm xác định số trọng lượng
hàng hoá đã giao
Tuy nhiên để đảm bảo tính
trung lập trong giao hàng, người nhập khẩu có thể yêu cầu người xuất khẩu cấp
giấy chứng nhận số/trọng lượng do người thứ ba thiết lập như Công ty giám định,
Hải quan hay người sản xuất.
NGN theo yêu cầu của người
xuất khẩu có thể mua bảo hiểm cho hàng hoá. Chứng từ bảo hiểm là những chứng từ
do cơ quan bảo hiểm cấp cho các đơn vị xuất nhập khẩu để xác nhận về việc hàng
hoá đã được bảo hiểm và là bằng chứng của hợp đồng bảo hiểm
Chứng từ bảo hiểm thường
được dùng là đơn bảo hiểm (Insurance Policy) hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm
(Insurance Certificate)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét