1. 
Khái
quát về nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.1.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế được coi như một hệ thống
các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua
mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường thì nền kinh tế đó gọi là kinh tế thị
trường (Trích “Giáo trình Kinh tế thương mại”, tr13, Nxb Đại học kinh tế Quốc
dân)
Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền
kinh tế - xã hội, trong đó các quan hệ kinh tế của cá nhân, các doanh nghiệp đều
biểu hiện qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của mọi
thành viên, chủ thể nền kinh tế là hướng vào tìm kiếm lợi ích của chính mình theo
sự dẫn dắt của giá cả thị trường (Trích “Giáo trình Kinh tế thương mại”, tr14,
Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân)
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng
hóa phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình
tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hóa; các yêu tố sản xuất như đất đai và
tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý;
các sản phẩm và dịch vụ tạo ra; chất xám đều là đối tượng mua bán là hàng hóa. Kinh
tế thị trường có những đặc trưng đó là có một khối lượng hàng hóa, dịch vụ dồi
dào phong phú mà nền kinh tế tự nhiên, kinh tế chỉ huy chưa bao giờ đạt được; mọi
hoạt động mua bán đều theo giá cả thị trường; tiền tệ hóa các mối quan hệ kinh
tế; sản xuất và bán hàng hóa theo nhu cầu thị trường; kinh tế thị trường là
kinh tế mở; cạnh tranh là môi trường của kinh tế thị trường và quyền tự chủ, tự
do của doanh nghiệp được nêu cao.
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự
điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng suất chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa
và phong phú hàng hóa; dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hóa thị trường;
năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Song, kinh tế
thị trường vốn có những khuyết tật nhất định. Do tính tự phát vốn có nên kinh tế
thị trường có thể dẫn đến không chỉ tiến bộ mà cả suy thoái, khủng hoảng, xung
đột xã hội, nên cần có sự can thiệp của nhà nước
1.2.
Cấu trúc thị trường
Thị
trường hoàn toàn không tách rời khái niệm phân công lao động xã hội, Sự phân
công lao động xã hội này như C.Mác đã nói là cơ sở chung của mọi nền sản xuất
hàng hóa. Khi nào có sự phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa thì khi ấy
có thị trường. Thị trường là biểu hiện của sự phân công lao động xã hội, do đó
thị trường có thể phát triển vô cùng tận
-
Thị trường diễn ra các hoạt động mua và
bán hàng hóa, dịch vụ
-
Thị trường là nơi gặp nháu giữa cung và
cầu, bao gồm cả 2 phạm vi:
+ Đối tượng lưu thông hàng hóa và dịch
vụ
+ Hoạt động lưu thông hàng hóa và dịch
vụ
-
Thị trường là tổng hợp các quan hệ kinh
tế hình thành trong quá trình mua bán. Qua đó, có thể thấy rằng, trong một vài
trường hợp người mua và người bán có thể gặp gỡ nhau trực tiếp tại các địa điểm
cố định như các thị trường hàng hóa tiêu dùng như quần áo, rau quả… Hoặc trong
một số trường hợp khác nhau như trong các thị trường chứng khoán, mọi công việc
giao dịch có thể diễn ra qua điện thoại, qua vô tuyến bằng cách điều khiển từ
xa… Nhưng một điều chung nhất đối với các thành viên tham gia vào thị trường là
tìm cách tối đa hóa lợi ích kinh tế của mình. Người bán muốn bán được sản phẩm
của mình để thu được lợi nhuận tối đa, người mua với lượng tiền có hạn của mình
muốn thu được sự thỏa mãn lớn nhất về sản phẩm mà họ mua
Chính sự
tác động qua lại giữa người mua và người bán sẽ xác định được giá cả của từng
loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể, đồng thời cung xác định số lượng, chất lượng, chủng
loại sản phẩm cần sản xuất ra và qua đó sẽ xác định được việc sử dụng các nguồn
tài nguyên có hạn của xã hội nói chung. Đây chính là nguyên tắc hoạt động của
cơ chế thị trường. Tuy nhiên, hoạt động thực tế của thị trường rất phức tạp,
khác nhau chủ yếu phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản như số lượng, quy mô, sức
mạnh của các nhà sản xuất
Đứng trên việc xem xét hành vi của thị
trường, các nhà kinh tế thường phân loại thi trường:
-
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: là thị
trường có vô số người mua và người bán; sản phẩm đồng nhất và người tiêu dùng
có đầy đủ thông tin về sản phẩm; việc gia nhập và rút lui khỏi thị trường là tự
do (Trích “Giáo trình Kinh tế vi mô”, tr180, Nxb Lao động – Xã hội)
-
Thị trường độc quyền: là thị trường mà
chỉ có duy nhất một hãng sản xuất và sản xuất một loại sản phẩm hoặc dịch vụ cụ
thể. Trong độc quyền, dịch vụ là độc nhất và không có hàng hóa thay thế gần gũi
(Trích “Giáo trình Kinh tế Vi mô”, tr193, Nxb Lao động – Xã hội)
-
Thị trường cạnh tranh độc quyền: là thị
trường mà trong đó có nhiều hãng sản xuất các hàng hóa và dịch vụ nhưng mỗi
hãng chỉ có khả năng kiểm soát một cách độc lập đối với giá cả của họ (Trích
“Giáo trình Kinh tế Vi mô”, tr203, Nxb Lao đông – Xã hội)
-
Thị trường độc quyền tập đoàn: là thị
trường trong đó một vài hãng sản xuất toàn bộ hay hầu hết mức cung của thị trường
về một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó. (Trích “Giáo trình Kinh tế Vi mô”,
tr207, Nxb Lao động – Xã hội)
Các yếu tố làm căn cứ phân loại thị trường:
-
Số lượng người bán (người sản xuất): Đây
là một tiêu thức rất quan trọng xác định cơ cấu thị trường. Trong cá thị trường
cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền có rất nhiều người bán. Mỗi người
trong số họ chỉ sản xuất một phần rất nhỏ lượng cung trên thị trường. Trong thị
trường độc quyền thì một ngành chỉ bao gồm một nhà sản xuất (người bán) duy nhất,
còn thị trường độc quyền tập đoàn là một trường hợp trung gian ở đó có vài người
bán kiểm soát hầu hết lượng cung trên thị trường
-
Chủng loại sản phẩm: Các nhà sản xuất
trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo sản xuất ra những sản phẩm đồng nhất, còn
trong ngành cạnh tranh độc quyền, các hãng sản xuất ra các sản phẩm khác nhau
đôi chút. Ví dụ, các xí nghiệp may đưa ra thị trường các loại quần áo khác nhau
về kiểu cách, chất lượng. Trong một ngành độc quyền tập đoàn thì các hang sản
xuất ra sản xuất ra các sản phẩm khác nhau còn trong ngành độc quyền thì sản phẩm
hoàn toàn giống nhau
-
Sức mạnh của hãng sản xuất: Một hãng sản
xuất trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, không có được khả năng trực tiếp ảnh
hưởng đến giá cả của thị trường. Trái lại, một nhà độc quyền có khả năng kiểm
soát rất lớn. Một hãng sản xuất trong điều kiện cạnh tranh độc quyền và độc quyền
tập đoàn sẽ có một mức độ kiểm soát nào đó đối với giá cả của hàng hóa và dịch
vụ
-
Các trở ngại xâm nhập thị trường: Trong
điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, các trở ngại đối với việc xâm nhập thị trường là
rất thấp. Ngược lại trong độc quyền tập đoàn sẽ có những trở ngại đáng kể đối với
việc gia nhập thị trường. Ví dụ: trong các ngành nghề chế tạo ô tô, luyện kim,
việc xây dựng các nhà máy mới là rất tốn kém và là trở ngại lớn đối với việc
gia nhập thị trường. Còn trong điều kiện độc quyền thì xâm nhập thị trường là cực
kì khó khăn. Nhà độc quyền luôn tìm mọi cách để duy trì vài trò độc quyền của
mình. Bằng sáng chế là một trở ngại lớn đối với các hãng muốn gia nhập thị trường
-
Hình thức cạnh tranh phi giá cả: Trong cạnh
tranh hoàn hảo có sự cạnh tranh phi giá cả. Trong cạnh tranh độc quyền, các nhà
sản xuất sử dụng các hình thức cạnh tranh phi giá cả như quảng cáo, phân biệt sản
phẩm của họ.
Ví dụ: Các nhà sản xuất quần áo thường cạnh tranh bằng
việc đưa ra các mốt, mẫu mã, kiểu cách khác nhau và quảng cáo dây chuyền sản xuất,
sản phẩm của họ. Trong độc quyền tập đoàn cũng sử dụng nhiều hình thức cạnh
tranh phi giá cả để làm tăng lượng bán của mình. Họ sử dụng nhiều quảng cáo đối
với sản phẩm của họ
1.3.
Hoạt động của thị trường
Nền kinh tế thị trường hoạt động một
cách có hiệu quả trên cơ sở tương tác các lực lượng cung cầu. Sự tương tác này
làm xuất hiện 3 vấn đề kinh tế đó là sản xuất cái gì, sản xuất cái gì và sản xuất
cho ai. Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng theo đuổi mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận. Họ tương tác với nhau để hình thành giá và sản lượng cân bằng đối
với các loại hàng hóa và dịch vụ.
Tuy nhiên, không phải lúc nào kết
quả do thị trường mang lại cũng là tối ưu, nhất là đối với toàn bộ xã hội. Khi
thị trường tự do tạo ra các kết quả mà xã hội không mong muốn, đó được gọi là
thất bại của thị trường. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là sự phân bổ nguồn lực
có hiệu quả của các nguồn tài nguyên khan hiếm của xã hội. Và chuẩn mực chúng về
hiệu quả phân bổ là hiệu quả Pareto. Hiệu quả Pareto đạt được trong điều kiện
thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Khi thị trường không đạt được trạng thái cân bằng
mang tính hiệu quả Pareto thì đó là thất bại của thị trường.
1.4.
Những thất bại mà thị trường gặp phải
Ø Ngoại
ứng
Ngoại ứng là tác động của quá trình
sản xuất hoặc tiêu dụng tới thành viên thứ ba không trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất hoặc tiêu dùng đó. Các ngoại ứng có thể mang tính chất tích cực
hay tiêu cực. Các ngoại ứng tiêu cực gây ra việc chi phối đối với ích cho thành
viên thứ ba còn các ngoại ứng tích cực mang lại lợi ích cho các thành viên này.
Những thành viên thứ ba không nhân được sự thanh toán hay phải trả chi phí
thích hợp. Ngoại ứng có thể phát sinh trong tiêu dùng hay trong sản xuất.
Ø Hàng
hóa công cộng
Ø Tính
cạnh tranh không hoàn hảo
Ø Phân
phối thu nhập không công bằng
2.
Chính
sách can thiệp của nhà nước
Sự can thiệp của nhà nước bảo đảm
cho sự vận động của thị trường được ổn định, nhằm tối đa hóa hiệu quả kinh tế,
bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa, khắc phục những
khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô, trong khi không vi phạm bản
chất và các cơ chế tự điều chỉnh ở tầm vi mô. Bằng cách đó, nhà nước kiềm chế sức
mạnh của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời, kinh tế thị
trường vẫn là kinh tế thị trường với tất cả tiềm năng kích thích của nó đối với
sản xuất, thông qua trao đổi hàng hóa – tiền tệ được thực hiện một cách tự do.
Vì vậy kinh tế thị trường cần có sự điều tiết hay sự can thiệp của nhà nước
2.1.
Chính sách tài khóa
2.2.1. Chính sách
tài khóa chủ động
2.2.2. Cơ chế tự
ổn định
2.2.3. Chính
sách tài khóa và ngân sách chính phủ
2.2.
Chính sách tiền tệ
2.3.
Sự tương tác giữa chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ
Ø Phối
hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Ø Sự
khác nhau về hiệu quả chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Ø Sự
khác nhau về độ trễ của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
2.4.
Tác động của sự can thiệp của chính
phủ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét